Nỗi buồn từ một ấn bản khoa học

14:49 16/10/2008
HÀ VĂN THỊNH Nhân dịp “Kỷ niệm 50 năm Đại học Huế (ĐHH) Xây dựng và Phát triển”, ĐHH xuất bản Tạp chí Khoa học, số đặc biệt – 36, 4.2007.

Về mặt nguyên tắc, ai cũng có quyền hy vọng ở chất lượng cao - phản ánh, kết tinh những tinh hoa trí tuệ của nửa thế kỷ cống hiến của một đại học danh tiếng. Thế nhưng, điều đáng buồn, là cuốn Tạp chí còn có nhiều sai sót. Do khuôn khổ một bài báo có hạn nên chúng tôi xin dẫn một vài cái sai trong một bài được xếp thứ ba (trong tổng số 19 bài nghiên cứu “tinh hoa”), đó là bài: Huế, quá trình hình thành đô thị cấp quốc gia, đặc trưng, giải pháp bảo tồn và phát triển, in từ trang 25 đến trang 30.
Đọc qua tiêu đề, những nhà nghiên cứu tất nhiên phải rùng mình vì cái nội dung ghê gớm của những nào là “quá trình”, “đặc trưng”, “giải pháp” lại có thể được gói gọn trong hơn 4 trang giấy (!). Sự bỡn cợt với khoa học là thực chất của công trình này.
Thứ nhất, tác giả của “công trình”(chúng tôi buộc phải dùng chữ công trình - CT, dù không muốn) không biết dùng từ, không hiểu nghĩa của từ, không biết cách đặt câu. Chẳng hạn: “Phú Xuân trở thành kinh đô của vương triều Tây Sơn; một trung tâm chính trị cấp Quốc gia đầu tiên ra đời tại Huế”. Tác giả của CT không hiểu sự khác nhau giữa “cấp quốc gia đầu tiên ra đời tại Huế” với “cấp quốc gia ra đời tại Huế lần đầu tiên”. Nói như thế có khác gì sổ toẹt giá trị của Thăng Long để tung hô Huế lên ngất trời?

Thứ hai, một CT khoa học nhưng lại luôn luôn “hô khẩu hiệu” là “đặc trưng” của dạng “khoa học đặc biệt” này. Ví dụ, để ca ngợi Chúa Nguyễn, CT viết: “Chúa Nguyễn là triều đại mở đầu cho một tư duy chính trị hướng ngoại và tư duy về biển trong phát triển kinh tế và quốc phòng của nước ta”. Ở đây không cần bàn đến lẽ thế nào là “tư duy”, chỉ cần hỏi: Nếu không biết đối nhân, xử thế với nước người, làm sao có thể đánh thắng quân Nguyên, làm sao có thể đuổi được giặc Minh? Vậy thì Chúa Nguyễn mở đầu cái nỗi gì? Hay tác giả CT muốn đẩy WTO đến tận thời của Chúa Nguyễn? CT còn đưa các nhà nghiên cứu theo cùng với Huế lên... cung trăng (!) khi viết: “Huế là nơi đóng tàu viễn dương... để những chiếc tàu này đưa người Việt sang tận châu Âu để thăm dò tình hình thế giới...” Một chiếc tàu viễn dương được đóng ở Đập Đá hay Kim Long thì không đủ mớn nước để hạ thủy đâu! Huế thời ấy, trên sông, chỉ rộng đến chừng đó. Tác giả CT căn cứ vào đâu để khẳng định Huế từng đóng rất nhiều tàu viễn dương? Nếu đóng thì đóng ở chỗ nào, lúc nào? Có nước nào đóng tàu viễn dương chỉ để đi sang châu Âu làm gián điệp hay không?...

Thứ ba, CT khoa học nhưng lại bị ám ảnh bởi những bóng đen của cái sự... “chạy”. CT viết: “... việc Huế được công nhận là đô thị cấp Quốc gia là một cố gắng của tỉnh Thừa Thiên Huế trong quá trình chuyển mình thoát khỏi danh sách các tỉnh lẻ và là một nỗ lực không ngừng của bản thân thành phố Huế để được xếp vào cấp đô thị loại cao nhất nhưng chưa trực thuộc trung ương”. Xin thưa với tác giả của CT là, tỉnh lẻ có gì là xấu mà phải “thoát”? Tiếp đó, cũng xin thưa rằng, do chưa là “của trung ương” nên đến nay, Huế vẫn thuộc về... tỉnh lẻ! Đọc đoạn văn trên, có cảm tưởng như là Huế đã và đang “chạy” để thoát khỏi một tai ách nào đó chứ không phải là một thành phố được thừa nhận bởi tính khách quan, biện chứng của thực tiễn, khoa học. Nếu thành phố Huế “nỗ lực”; tỉnh Thừa Thiên Huế “cố gắng” thực chất, tại sao lại có đoạn văn này: “Sự tùy tiện, đóng cửa và dốt nát của nhà quản lý và quy hoạch Huế hiện nay là đồng nghĩa với tội phạm cần phải lên án” (?).

Câu trên có rất nhiều những điều nghiêm trọng. Đã là nhà khoa học, nhất thiết phải chỉ rõ sự dốt nát hay đóng cửa, cụ thể là những cái gì? Một khi đã là “hiện nay” tức là đã và đang xảy ra; vậy, nguồn để quy kết “tội phạm” là ở đâu? Coi việc quản lý và quy hoạch (tức UBND tỉnh TTH, UBND thành phố Huế) là tội phạm thì phần “thoát” ở trên có phải là phản đề hay không? (Xin nhấn mạnh rằng ấn phẩm mà chúng tôi có trong tay đã được chính tác giả của CT đọc kỹ, dự Hội thảo khoa học trước đó, tức sai lầm và kém cỏi trước hết thuộc về tác giả, người phản biện; chứ không hoàn toàn thuộc về Ban biên tập Chuyên san của ĐHH).

Thứ tư, có những câu văn tối nghĩa kiểu hội hè: “Ngày xưa vua chúa tập trung trí tuệ, nghệ nhân trong nước và mời chuyên gia nước ngoài về Huế để xây dựng thủ phủ, kinh đô. Thì ngày nay việc bảo tồn, tôn tạo di tích Huế cũng phải huy động sự đóng góp trí tuệ, tay nghề giỏi trong nước và thế giới”; hoặc “...phù hợp với một thành phố di sản giàu nhân văn”. Thì ra ngày nay cũng giống như ngày xưa trong chuyện “giải pháp”? Chẳng lẽ ngày nay cũng có vua, có chúa hay sao? “Giải pháp” mà giống y chang với ngày xưa thì “giải pháp” cái kiểu gì? Viết như thế, người đọc có cảm giác chỉ có riêng Huế mới “giàu nhân văn” còn các thành phó khác là bụi, là rác, là không có nhân văn? Nếu cộng thêm lẽ mù mờ, chính tả sai của câu văn trên, sự hiểu thật giống với cõi mịt mịt...

Thứ năm, phàm luận, sàm ngôn, giả chứng là điều tối kỵ của khoa học, nhưng CT không hề muốn biết đến nguyên tắc đó. Trang 25 viết: “Quá trình hình thành trung tâm chính trị Phú Xuân - Huế là quá trình xác lập trung tâm chính trị cấp Quốc gia và mang tầm vóc quốc tế” (viết hoa chữ “Quốc” trong nguyên bản). Người đọc không hiểu nổi tác giả CT muốn đưa Huế lên sao Kim hay sao Thổ? Nếu nói một Di sản văn hóa lại có “tầm vóc trung tâm chính trị quốc tế” thì chỉ có trời mới hiểu; vì Huế, từ năm 1885, chỉ là một trung tâm chính trị “đã từng là...” Chính xác, Huế là trung tâm chính trị quốc gia từ 1802 đến 1885. 83 năm với một nền chính trị lầm lạc, bảo thủ; là thời gian không đủ để “mang tầm vóc quốc tế”. Chưa nói đến chuyện, tiêu chuẩn của một thành phố có “tầm vóc quốc tế” là những gì? Thậm chí, CT còn làm cho người đọc ngỡ ngàng khi phán chắc hơn cua gạch rằng “Sông Hương cũng là một kiệt tác của thiên nhiên, là con sông đầu tiên của thế giới được UNESCO gợi ý lập hồ sơ công nhận di sản của thế giới” và, kinh thành Huế là “tuyệt tác của kiến trúc quân sự Việt Nam”(?). “Tuyệt tác” thì để cho các nhà mỹ học bàn, nhưng về quân sự, theo chúng tôi, kinh thành Huế là một trong những thành quách dễ đánh chiếm nhất trên thế giới này. Còn nói sông Hương là “con sông đầu tiên của thế giới được gợi ý” thì sai hết biết! Tác giả CT chắc chắn không biết rằng trong 830 Di sản thế giới ở 138 quốc gia và vùng lãnh thổ, có 162 Di sản thiên nhiên với rất nhiều dòng sông được xếp hạng từ lâu như sông Seine (1991); sông Amazon (2000); nguồn của 3 dòng sông lớn ở Vân Nam (2003)...

Khoa học, dù bất kỳ ở đâu, lúc nào; cũng phải tôn trọng những giá trị nguyên khởi, bất biến của nó. Cách hành xử của “khoa học” trong trường hợp này là coi thường, xúc phạm đến hàng ngàn nhà khoa học chân chính của ĐHH. Sự vô trách nhiệm là không thể biện minh. Sự coi thường những người khác là không thể khỏa lấp.
Câu kết của CT viết: “Di sản văn hóa Huế tồn tại trong khi nhiều thế hệ đã đi qua. Chúng ta nhận di sản Huế từ ông cha trong quá khứ thì chúng ta phải biết làm cho di sản Huế ngày càng đẹp hơn, sang trọng hơn; đó là lương tâm, là mệnh lệnh của cuộc sống, là trách nhiệm công dân, là thước đo để đánh giá văn minh của thời đại; để chúng ta trao cho tương lai một tài sản vô giá mà không hổ thẹn vì sự đóng góp xứng đáng của thế hệ hôm nay”. Nếu “sang trọng” là “thước đo của văn minh” thì những người lao động vất vả, lam lũ chẳng bao giờ có phần (!) Thực tình, đọc một CT có “đóng góp hô khẩu hiệu” kiểu đó, không ai là không khỏi cảm thấy hổ thẹn!
Cái vỏ của khoa học đã sai, cái ruột còn tắc trách hơn. Một khi bền chắc như cái mai rùa, bảo thủ như lớp da dày khó xuyên thủng của thiển cận, mà còn hư; thì, ruột đã nát mất rồi...
                               Huế, tháng 5, 2007
H.V.T

(nguồn: TCSH số 221 - 07 - 2007)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN THANH HÙNGVăn học là cuộc sống. Quan niệm như vậy là chẳng cần phải nói gì thêm cho sâu sắc để rồi cứ sống, cứ viết, cứ đọc và xa dần mãi bản thân văn học.

  • LTS: Cuộc tranh luận giữa hai luồng ý kiến về nhân vật lịch sử Nguyễn Hiển Dĩnh, một mệnh quan triều đình Huế có công hay có tội vẫn chưa thuyết phục được nhau.Vấn đề này, Tòa soạn chúng tôi cũng chỉ biết... nhờ ông Khổng Tử "Tri chi vi tri chi, bất tri vi bất tri, thị tri giả" (biết thì nói biết, không biết thì nói không biết, ấy là biết). Vậy nên bài viết sau đây của nhà văn, nhà nghiên cứu lịch sử văn hóa Nguyễn Đắc Xuân, chúng tôi xin đăng nguyên văn, tác giả phải gánh trọn trách nhiệm về độ chính xác, về tính khoa học của văn bản.Mong các nhà nghiên cứu, cùng bạn đọc quan tâm tham gia trao đổi tiếp.

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂNNăm 1998, Thành phố Đà Nẵng dự định lấy tên nhà soạn tuồng Nguyễn Hiển Dĩnh đặt cho con đường mới song song với đường 2 tháng 9 và đường Núi Thành. Nhưng sau đó qua một số tin bài của tôi đăng trên báo Lao Động nêu lên những điểm chưa rõ ràng trong tiểu sử của ông Nguyễn Hiển Dĩnh, UBND Thành phố Đà Nẵng thấy có một cái gì chưa ổn trong tiểu sử của Nguyễn Hiển Dĩnh nên đã thống nhất rút tên ông ra khỏi danh sách danh nhân dùng để đặt tên đường phố lần ấy. Như thế mọi việc đã tạm ổn.

  • Vừa qua nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân có viết một loạt bài về ông Nguyễn Hiển Dĩnh - một quan lại triều nguyễn, nhà soạn tuồng nổi tiếng Quảng Nam. Qua thư tịch, anh chứng minh Nguyễn Hiển Dĩnh tuy có đóng góp cho nghệ thuật tuồng cổ nhưng những hành vi tiếp tay cho Pháp đàn áp các phong trào yêu nước ở Quảng Nam quá nặng nề nên không thể tôn xưng Nguyễn Hiển Dĩnh là danh nhân văn hoá của việt Nam như Viện Sân khấu và ngành văn hoá ở Quảng Nam Đà Nẵng đã làm. Qua các bài viết của Nguyễn Đắc Xuân có những vấn đề lâu nay ngành văn hoá lịch sử chưa chú ý đến. nhà báo Bùi Ngọc Quỳnh đã có cuộc đối thoại lý thú với anh về những vấn đề nầy.

  • ĐỖ NGỌC YÊNVào những năm 70 của thế kỷ, ở nhiều nước phương Tây tràn ngập không khí của cuộc khủng hoảng gia đình, làm cho nhiều người rất lo ngại. Một số kẻ cực đoan chủ trương xóa bỏ hình mẫu gia đình truyền thống. Nhưng cái khó đối với họ không phải là việc từ bỏ hình mẫu gia đình cũ - mặc dù trên thực tế việc làm đó không phải dễ - mà vấn đề đâu là hình mẫu gia đình mới.

  • NGUYỄN ĐÌNH CHÍNH             Phóng sự điều tra

  • THỦY THANHLâu nay, "quả lắc" vì sự trong sáng tiếng Việt dường như đã trì vào điểm chết của dây dọi. Những mặc cảm, thành kiến hoặc dị ứng về sự "ga lăng ngôn ngữ" trước áp lực của thời đại tin học cũng chững lại như một thái độ thăm dò. Suy cho cùng thì ngôn ngữ cũng có đời sống riêng và nó bao gồm cả thể vía lẫn thể xác. Nó cũng "hữu sinh tất hữu diệt" trong luật tiến hóa và đào thải như nhiên. Ngôn ngữ nói chung là một phương pháp hệ thống hóa và tích lũy tri thức theo sự diễn tiến về mặt lịch đại và sự tiệm tiến về mặt đồng đại.

  • Các lý thuyết văn học tiếp cận văn chương theo những cách khác nhau và có thể được phân loại theo những tiêu chí khác nhau. Tuy nhiên, có một điểm chung tối quan trọng không thể chối cãi: tác phẩm văn học là một hiện tượng sử dụng ngôn ngữ trong đó không thể thiếu vai trò của tác giả, độc giả cũng như thực tại, cho dù mỗi yếu tố tham gia ở những mức độ khác nhau.

  • Viết là một công việc bất hạnh. Một trong những yếu tố gây khốn khổ cho nhà văn là cốt truyện. Cốt truyện là “ông ngoáo ộp” dọa dẫm người cầm bút và cũng là nguyên nhân chung dẫn đến sự bế tắc của họ trong quá trình triển khai tác phẩm.

  • Trên thế giới, ít có loài hoa nào ra đời sớm, phổ biến với nhiều biểu trưng cao quý như hoa sen. Dáng hình đẹp, màu sắc trang nhã, hương thơm thùy mị, thanh khiết, không nhiễm bẩn... chừng ấy đức tính tốt đẹp đã đưa hoa sen thành biểu trưng cao quý của đạo Phật.

  • TRẦN ĐƯƠNGGoethe (1749-1832) hoạt động trên rất nhiều lĩnh vực và ở lĩnh vực nào ông cũng thâu tóm những tri thức đồ sộ, cũng đạt được những thành tựu xuất sắc. Tên tuổi ông trở thành niềm tự hào của cả dân tộc, được Các Mác gọi là người Đức vĩ đại nhất”.

  • AN CHÍNHCó lẽ Hồng Nguyên là một trong những nhà thơ rất thành công về việc dùng "tiếng địa phương trong thơ của mình.

  • Flier Andrei Jakovlevich(Tiến sĩ triết học, nhà văn hóa học của Nga)

  • HOÀNG NGỌC HIẾN    (Đọc "Văn hóa chính trị - truyền thống và hiện đại" (1) của Nguyễn Hồng Phong)Đây là công trình nghiên cứu tổng kết có tính chất chiến lược Chương trình khoa học công nghệ cấp Nhà nước KX06 "Văn hóa, văn minh vì sự phát triển và tiến bộ xã hội" do cố giáo sư Nguyễn Hồng Phong làm chủ nhiệm(2). Lịch sử những quá trình hiện đại hóa ở Việt Nam từ cuối t.k.XIX đến nay là một chủ đề quan trọng của công trình.

  • NGUYỄN ĐÌNH CHÍNHThực trạng của phê bình nghệ thuật hiện nay đang là một câu hỏi cần phải được trả lời.

  • THỦY THANHCuộc thi thơ dành cho người tàn tật ở Thừa Thiên Huế mặc dù "thời gian ứng thí" chưa đầy 2 tháng nhưng đã thu được kết quả đáng khích lệ. Với 33 tác phẩm của 7 tác giả nghiệp dư mang khuyết tật trên mình nhưng mỗi con người trong họ vẫn là "một thế giới một tâm hồn" lành lặn.

  • HOÀNG TẤT THẮNGMột trong những đặc điểm đặc thù của tiếng Việt là: các danh từ chỉ sự vật, hiện tượng, trạng thái, tính chất... không phải luôn chỉ đứng một mình mà thường kết hợp với một từ đứng trước với chức năng phân loại, chỉ đơn vị, biểu thái... trong lời nói. Chẳng hạn, sự vật thuyền trong tiếng Việt không phải chỉ có từ "thuyền" mà còn có "cái thuyền", "chiếc thuyền", "con thuyền", "lá thuyền", "mảnh thuyền"... các từ "cái - chiếc - con - lá - mảnh..." thường gọi là từ chỉ loại (hay là loại từ).

  • NGUYỄN THANH HÙNGVăn học thời đại nào cũng là sự du di cái nhìn thấm sâu vào đời sống. Thơ văn nói tới cái thật xa, rồi lại trở về với cái thật gần. Muốn đi xa, hành trang thơ phải gọn nhẹ, nhẹ chữ nhưng nặng lòng. Thơ Thiền là vậy. Mỗi câu thơ như một mũi tên bay vào tưởng tượng. Giữa những dòng thơ Thiền là một cõi chân như, vượt ra ngoài định giới môi trường xã hội quen thuộc, vì thế thơ Thiền thênh thang hướng đạo nhằm mục đích cứu sinh, đưa con người trở về với chính nó.

  • LÊ ĐẠT                Đường bụi trang lịch cũ                 ếp ếp đàn thời gian                                           L.Đ

  • HOÀNG NGỌC HIẾN             (góp phần định nghĩa minh triết)Tôi bắt đầu tiểu luận này bằng những suy nghĩ có liên quan đến chủ đề minh triết của hai học giả Việt Nam: Ngô Thời Sĩ (1740-1786) và Kim Định (1914- 1997).