PHẠM TẤN XUÂN CAO
Ảnh: internet
1. Giải Nobel Văn học năm nay thuộc về tiểu thuyết gia người Anh gốc Nhật, Kazuo Ishiguro, với thông cáo được Viện Hàn lâm Thủy Điển đưa ra rằng giải được trao vì những tiểu thuyết có sức tác động đến cảm xúc lớn lao của ông, qua đó đã khai mở vực sâu khôn cùng trong sự kết nối bằng cảm quan bồng bềnh của chúng ta với thế giới. (“who, in novels of great emotional force, has uncovered the abyss beneath our illusory sense of connection with the world”).
Kazuo Ishiguro sinh ngày 08/11/1954 ở Nagasaki, Nhật Bản. Gia đình ông chuyển đến Anh vào lúc ông lên 5 tuổi. Năm 1974, ông học ở Đại học Kent (Canterbury), tốt nghiệp tại đó vào năm 1978 với tấm bằng cử nhân Ngôn ngữ Anh và Triết học. Sau một khoảng thời gian viết tiểu thuyết, ông quay trở lại học ở Đại học Đông Anglia, ở đó ông học với Malcolm Bradbury và Angela Carter, sau đó nhận bằng thạc sĩ chuyên ngành Viết văn sáng tạo (Creative Writing) vào năm 1980. Năm 1983, ông đã lọt vào danh sách những nhà viết văn trẻ tuổi hay nhất ở Anh được tạp chí Granta bình chọn, cùng nằm trong danh sách này có Martin Amis, Ian McEwan và Salman Rushdie. Ông được xem là một trong số những tác giả tiểu thuyết đương đại trứ danh nhất trong phạm vi của các nước nói tiếng Anh. Năm 1989, ông nhận giải thưởng Man Booker với tiểu thuyết Phế tích của một ngày (The Remains of the Day). Tiểu thuyết Mãi đừng xa tôi (Never Let Me Go) được tờ thời báo Time xem là tiểu thuyết xuất sắc nhất năm 2005 và đã đưa nó vào danh sách 100 tiểu thuyết bằng tiếng Anh hay nhất từ năm 1923 đến năm 2005. Theo Viện Hàn lâm Thủy Điển, các chủ đề như ký ức, thời gian và sự bồng bềnh tỏa khắp các tác phẩm của ông, đặc biệt là ở trong Phế tích của một ngày; riêng tác phẩm này cũng đã được chuyển thể thành phim. Các tiểu thuyết nổi tiếng khác của ông có thể kể đến như Một cái nhìn nhạt nhòa về những đỉnh đồi (A Pale View of Hills, 1982); Người nghệ sĩ của thế giới nổi trôi (An Artist of the Floating World, 1986); Khôn nguôi (The Unconsoled, 1985); Khi chúng ta là những kẻ mồ côi (When We Were Orphans, 2000); Người khổng lồ ngủ quên (The Buried Giant)…
Khi trả lời về việc nhận được giải Nobel, Ishiguro nói rằng đó là một niềm vinh hạnh rất lớn, lý do chủ yếu là bởi vì nó có nghĩa rằng ông đang ở trên chặng đường danh giá của các tác giả vĩ đại, do đó với ông nó còn là một sự ngợi ca tột đỉnh. Ishiguro cũng chia sẻ thêm rằng, thế giới hiện nay của chúng ta đang ở vào thời kỳ cực kỳ bất định và ông hy vọng mỗi giải Nobel sẽ là một tác nhân tích cực đối với thế giới đang ở vào giai đoạn khủng hoảng này. Theo ông, đây là một thời kỳ rất kỳ dị trên thế giới, chúng ta sống trong sự thất thoát niềm tin vào các hệ thống chính trị, chúng ta mất niềm tin vào các nhà lãnh đạo, chúng ta hoàn toàn không chắc chắn vào các giá trị của chúng ta, và ông hy vọng rằng chiến thắng giải Nobel của ông sẽ góp chút gì đó đem lại điều tốt đẹp và hòa bình.
2. Đa phần các tiểu thuyết của ông (ngoại trừ Người khổng lồ ngủ quên - The Buried Giant) đều được viết theo lối kể chuyện ngôi thứ nhất và người kể chuyện thỉnh thoảng bộc lộ những thiếu sót kiểu con người. Thủ pháp của Ishiguro cho phép các nhân vật thể hiện ra những khe hở của chúng một cách ngấm ngầm trong suốt câu chuyện. Tác giả tạo ra ý nghĩa đặc trưng bằng cách cho phép người đọc nhìn thấy những khe hở của người kể chuyện đồng thời lại muốn hướng đến cảm thông với người kể chuyện. Đặc trưng này thường được rút ra từ các hoạt động của người kể chuyện, hay thông thường hơn, từ sự không hoạt động của người kể chuyện. Trong Phế tích của một ngày, người hầu Stevens đã không hành động theo những cảm xúc lãng mạn của anh ta nhắm đến người quản gia là bà Kenton bởi vì anh ta không điều hòa được giữa ý nghĩa của công việc hầu hạ của anh ta với đời sống cá nhân mình.
Các tiểu thuyết của Ishiguro thường kết thúc mà không có bất kỳ ý nghĩa nào được giải quyết cả. Các vấn đề mà những nhân vật của ông đối diện được chôn cất vào quá khứ và vẫn không được giải quyết. Vì thế Ishiguro kết thúc rất nhiều tiểu thuyết của mình với một lưu ý về sự cam chịu có tính u sầu. Các nhân vật của ông chấp nhận quá khứ của họ và người mà họ trở thành, sự nhận thức này mang lại một sự thuận tiện và một cái kết gắn với nỗi đau tinh thần. Điều này có thể được nhìn nhận như là một quan niệm văn học thiên về ý niệm của người Nhật Bản “mono no aware” (đời là vô thường). Ishiguro đã xem Fyodor Dostoyevsky và Marcel Proust là những người đã ảnh hưởng đến ông. Các tác phẩm của ông cũng được so sánh với các tác phẩm của Salman Rushdie, Jane Austen, và Henry James, mặc dù chính ông đã loại bỏ những sự so sánh này.
Một số các tiểu thuyết của ông viết về quá khứ. Mãi đừng xa tôi có những tính chất của một tiểu thuyết khoa học viễn tưởng và sắc thái vị lai. Tuy nhiên, nó được viết vào những năm 1980 và 1990 nên chúng ta có thể hiểu như nó diễn ra ở một thế giới song song tương tự ở vào thời điểm khi đó. Tiểu thuyết Khôn nguôi diễn ra ở một thành phố không có tên nằm ở trung tâm châu Âu. Phế tích của một ngày diễn ra ở một miền quê xa của vương quốc Anh trong giai đoạn Thế chiến thứ II. Người nghệ sĩ của thế giới nổi trôi viết về một thành phố không tên ở Nhật Bản trong suốt giai đoạn phục hồi sau sự đầu hàng của phát-xít Nhật vào năm 1945. Ở tiểu thuyết này, người kể nhấn mạnh đến vai trò của mình trong Thế chiến thứ II. Ông ta thấy mình đã bị khiển trách bởi thế hệ mới cáo buộc ông ta liên quan đến chính sách ngoại giao đầy sai lầm của Nhật Bản và đã đối diện với những lý tưởng của thời hiện đại như được đại diện bởi người cháu trai của ông ấy. Ishiguro cực kỳ yêu thích trước những sự thiết đặt thời gian trước và sau chiến tranh, bởi vì mối quan tâm của ông nhấn mạnh đến sự sản sinh của các giá trị và các lý tưởng được kiểm chứng, và con người phải giáp mặt với quan niệm rằng những lý tưởng của họ chẳng bao giờ hoàn toàn là điều mà họ nghĩ, chúng có trước khi sự xác minh xảy ra.
Trong suốt sự nghiệp khoảng chừng 35 năm, Ishiguro đã có được một sự công nhận rộng rãi với lối viết truyện kìm nén về mặt cảm xúc. Các tiểu thuyết của ông thường được viết theo ngôi thứ nhất, với những người kể chuyện không đáng tin cậy đi theo sự chối bỏ các chân lý dần dần được thể hiện ra cho người đọc. Sự cộng hưởng ở trong những cốt truyện của ông thường đến từ rất nhiều ý nghĩa ngầm ẩn, kiểu như những sự vật không nói, và những khoảng trống giữa nhận thức của người kể chuyện và thực tại. Sara Danius, thư ký thường trực của Viện Hàn lâm, nói về chiến thắng của Ishiguro như sau: Giải thưởng được trao cho Ishiguro đã đánh dấu một sự thay đổi từ người nhận giải Nobel năm ngoái, Bob Dylan. Ishiguro là người đặc biệt quan tâm đến cách hiểu về quá khứ, nhưng ông không phải là một nhà văn kiểu Proust, ông ta không muốn chuộc lại quá khứ, ông ta đang khám phá điều mà bạn đã lãng quên để hồi sinh ngay tại thời điểm đầu tiên mà ở đó vị trí của kẻ đang nhận chân sự thật có thể là một cá nhân hoặc là một xã hội. Sara Danius chia sẻ, nếu bạn trộn Jane Austen và Franz Kafka lại bạn sẽ có Kazuo Ishiguro, nhưng bạn phải thêm vào đó một ít Marcel Proust. Bà cho rằng Ishiguro là một nhà văn của tính liêm chính cao cả. Tiểu thuyết gia người Canada, Michael Ondaatje, tác giả của “The English Patient” cũng đã chia sẻ rằng bà đã “run lên vì sung sướng” trước sự lựa chọn của Viện Hàn lâm. Bà ấy viết trên email như sau, ông ấy là một nhà văn hiếm hoi và bí ẩn, luôn gây kinh ngạc cho tôi.
Nói về giải Nobel của Ishiguro, ủy viên của Viện, nhà thơ Andrew Motion cho rằng, thế giới tưởng tượng của Ishiguro có tác dụng thật vĩ đại và giá trị gần gũi một cách sâu sắc đồng thời mang tính cá nhân cao độ - một thế giới của sự bối rối, cách ly, thận trọng, đe dọa và đầy kinh ngạc. Motion cho rằng, ông ấy làm điều đó bằng cách kết dệt các câu chuyện của mình dựa trên những nguyên tắc nền tảng bao chứa một loại hình biểu thị khá sinh động của tình trạng căng thẳng cảm xúc. Nó là một sự kết hợp đầy hấp dẫn và đáng chú ý, cũng như đầy kinh ngạc để so sánh nó với những người nhận giải Nobel trước đây. Trong khi đó, Will Self lại phản ứng với chiến thắng của Ishiguro ở trong một chiều hướng về cơ bản mang tính sầu thảm. Self cho rằng, ông ta là một nhà văn hay, và từ đó tôi đã chứng kiến một con người đáng mến, nhưng điều đặc biệt trong cái nhìn của ông là ông thường bị sa lầy bởi những vòng nguyệt quế của sự lụi tàn, trong khi đó tôi ngờ rằng giải thưởng sẽ khiến cho chúng ta ngày càng ít để ý đến tính trung tâm có từ trước kia của tiểu thuyết đối với nền văn hóa của chúng ta hơn.
3. Chúng tôi nghĩ, việc chọn Ishiguro năm nay để thể hiện được một sự lựa chọn sáng suốt của Viện Hàn lâm khi đã tập trung vào giá trị văn học thuần túy gắn liền với tính chính đáng của giải là một giải thưởng trao cho hạng mục văn học. Khi mà những năm trước đây, Viện Hàn lâm đã chọn những cây viết làm việc trong những hình thức không có quy ước hay không rõ ràng về thể loại đánh động được những giá trị cơ bản của văn học thì việc trao giải năm nay là một bước chuyển lớn. Một điểm cần phải lưu ý ở đây là năm nay người ta chọn trao cho tác giả của dòng tiểu thuyết, một thể loại chủ lưu của văn học. Năm ngoái, giải được trao cho ca sĩ-nhạc sĩ Bob Dylan, vì đã và đang tạo ra những sự diễn đạt có tính thi ca mới mẻ ở trong truyền thống âm nhạc vĩ đại của Mỹ. Giải được trao, và sau đó đã làm phẫn nộ một số người theo nền văn học truyền thống. Cũng như hồi năm 2015, giải Nobel văn học được trao cho Svetlana Alexievich một tác giả hoạt động trong lĩnh vực báo chí, người được biết đến với những câu chuyện lịch sử bằng miệng đầy ắp sự chan hòa; và vào năm 2013, giải đã được trao cho nhà văn viết thể loại truyện ngắn người Canada, Alice Munro.
Thêm nữa, thiết nghĩ, chúng ta cần phải chú ý rằng kể từ năm 2010 đến nay, các giải Nobel văn học đều thể hiện một điểm nổi bật có thể thấy được, đó là sự sống dậy của chủ nghĩa hiện đại. Bằng chứng có thể thấy vào năm 2010 với giải thưởng của Mario Vargas Llosa qua thông cáo giải được trao vì “địa đồ của ông về các cơ cấu quyền lực và những hình ảnh đanh thép của ông về sự kháng cự, nổi dậy và thất bại của cá nhân”. Năm 2011,Tomas Tranströmer được xướng danh “thông qua những hình ảnh ảo diệu, súc tích ông đã mang lại cho chúng ta lối vào rõ rệt về hiện thực”. Năm 2012, Mạc Ngôn đã giúp “chủ nghĩa hiện thực huyền ảo hợp nhất với các câu chuyện dân gian, lịch sử và đương đại”. Năm 2013, Alice Munro được xem như là bậc thầy của truyện ngắn đương đại. Năm 2014, Patrick Modiano và “nghệ thuật ký ức nhờ đó ông đã viện dẫn đến những số phận con người không thể nắm bắt được đồng thời khai mở một thế giới đời sống của sự cư lưu”. Năm 2015, Svetiana Alexievich hiện diện với “lối viết phức điệu, một tượng đài cho sự thống khổ và dũng cảm ở thời đại chúng ta”. Qua đó, một lần nữa, chúng ta càng chứng kiến được sự uể oải của con người hiện nay trước sự phân mảnh của các hệ thống giá trị, và người ta muốn tìm về với một nền tảng, một cơ sở có thể cưu mang họ trước những tháng ngày phiêu linh và vô định này, hay nói theo một cách khác, nhưng cùng một ý đó, rằng, hẳn là kết quả của những lần trao giải Nobel qua các năm gần đây càng khiến cho chúng ta có thêm niềm tin vào sức sống dậy của chủ nghĩa siêu hiện đại, một cuộc trở về với chủ nghĩa hiện đại sau mối hoài nghi kinh niên của hậu hiện đại về một tinh thần thời đại/siêu tự sự.
P.T.X.C (Tổng hợp)
(TCSH345/11-2017)
Hoàng Phủ Ngọc Tường. Sinh ngày 9 tháng 9 năm 1937. Quê ở Triệu Long, Triệu Hải, Quảng Trị. Năm 1960, tốt nghiệp khóa I, ban Việt Hán, Trường đại học Sư phạm Sài Gòn. Năm 1964, nhận bằng cử nhân triết Đại học Văn khoa Huế. Năm 1960 - 1966, dạy trường Quốc Học Huế. Từng tham gia phong trào học sinh, sinh viên và giáo chức chống Mỹ - ngụy đòi độc lập thống nhất Tổ quốc. Năm 1966 - 1975, nhà văn thoát li lên chiến khu, hoạt động ở chiến trường Trị Thiên. Sau khi nước nhà thống nhất, từng là Chủ tịch Hội Văn nghệ Quảng Trị, Tổng biên tập Tạp chí Cửa Việt.
ANH DŨNGLTS: Kết hợp tin học với Hán Nôm là việc làm khó, càng khó hơn đối với Phan Anh Dũng - một người bị khuyết tật khiếm thính do tai nạn từ thuở còn bé thơ. Bằng nghị lực và trí tuệ, anh đã theo học, tốt nghiệp cử nhân vật lý lý thuyết trường Đại học Khoa học Huế và thành công trong việc nghiên cứu xây dựng hoàn chỉnh bộ Phần mềm Hán Nôm độc lập, được giải thưởng trong cuộc thi trí tuệ Việt Nam năm 2001.Sông Hương xin giới thiệu anh với tư cách là một công tác viên mới.
SƠN TÙNGLTS: Trong quá trình sưu tầm, tuyển chọn bài cho tập thơ Dạ thưa Xứ Huế - một công trình thơ Huế thế kỷ XX, chúng tôi nhận thấy rằng, hầu hết các nhà thơ lớn đương thời khắp cả nước đều tới Huế và đều có cảm tác thơ. Điều này, khiến chúng tôi liên tưởng đến Bác Hồ. Bác không những là Anh hùng giải phóng dân tộc, là danh nhân văn hoá thế giới mà còn là một nhà thơ lớn. Các nhà thơ lớn thường bộc lộ năng khiếu của mình rất sớm, thậm chí từ khi còn thơ ấu. Vậy, từ thời niên thiếu (Thời niên thiếu của Bác Hồ phần lớn là ở Huế) Bác Hồ có làm thơ không?Những thắc mắc của chúng tôi được nhà văn Sơn Tùng - Một chuyên gia về Bác Hồ - khẳng định là có và ông đã kể lại việc đó bằng “ngôn ngữ sự kiện” với những nhân chứng, vật chứng lịch sử đầy sức thuyết phục.
NGUYỄN KHẮC PHÊAnh Hoài Nguyên, người bạn chiến đấu của nhà văn Thái Vũ (tức Bùi Quang Đoài) từ thời kháng chiến chống Pháp, vui vẻ gọi điện thoại cho tôi: “Thái Vũ vừa in xong TUYỂN TẬP đó!...” Nhà văn Thái Vũ từng được bạn đọc biết đến với những bộ tiểu thuyết lịch sử đồ sộ như “Cờ nghĩa Ba Đình” (2 tập - 1100 trang), bộ ba “Biến động - Giặc Chày Vôi”, “Thất thủ kinh đô Huế 1885”, “Những ngày Cần Vương” (1200 trang), “Thành Thái, người điên đầu thế kỷ” (350 trang), “Trần Hưng Đạo - Thế trận những dòng sông” (300 trang), “Tình sử Mỵ Châu” (300 trang)... Toàn những sách dày cộp, không biết ông làm “tuyển tập” bằng cách nào?
MINH QUANG Trời tròn lưng bánh tét Đất vuông lòng bánh chưng Dân nghèo thương ngày Tết Gói đất trời rưng rưng...
NGUYỄN THỊ THÁITôi không đi trong mưa gió để mưu sinh, để mà kể chuyện. Ngày ngày tôi ngồi bên chiếc máy may, may bao chiếc áo cho người. Tôi chưa hề may, mà cũng không biết cách may một chiếc Yêng như thế nào.
Nhà thơ Hải Bằng tên thật là Vĩnh Tôn, sinh ngày 3 tháng 2 năm 1930, quê ở thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ông mất ngày 7 tháng 7 năm 1998.
NGUYỄN VĂN HOACuốn sách: "Nhớ Phùng Quán" của Nhà xuất bản Trẻ, do Ngô Minh sưu tầm, tuyển chọn và biên soạn với nhiều tác giả phát hành vào quý IV năm 2003. Cuốn sách có 526 trang khổ 13x19cm. Bìa cứng, in 1000 cuốn. Rất nhiều ảnh đẹp của Nguyễn Đình Toán - nhà nhiếp ảnh chân dung nổi tiếng của Việt nam. Đơn vị liên doanh là Công ty Văn hoá Phương Nam.
ĐÀ LINHĐể có trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ, trước đó quân đội Nhân dân Việt Nam đã có những trận đánh để đời mở ra những khả năng to lớn về thế và lực cho chúng ta. Trong đó Trận chiến trên đường (thuộc địa) số 4 - biên giới Cao Bắc Lạng 1950 là một trận chiến như vậy.
HOÀNG VĂN HÂNLướt qua 30 bài thơ của Ngô Đức Tiến trong “Giọng Nghệ”, hãy dừng lại ở những bài đề tài tình bạn. Với đặc điểm nhất quán, bạn của anh luôn gắn liền với những hoài niệm, với những địa chỉ cụ thể, về một khoảng thời gian xác định. Người bạn ấy hiện lên khi anh “nghĩ về trường” “Thăm trường cũ”, hoặc là lúc nhớ quá phải “Gửi bạn Trường Dùng” “ Nhớ bạn Thanh Hoá”. Bạn của anh gắn với tên sông, tên núi: sông Bùng, sông Rộ, Lạt, Truông Dong, Đồng Tháp.
FAN ANHTrên thế gian này tồn tại biết bao nhiêu báu vật, hoặc những huyền thoại về báu vật, thì cũng gần như hiện hữu bấy nhiêu nỗi đau và bi kịch của con người vốn dành cả cuộc đời để kiếm tìm, bảo vệ, chiếm đoạt hay đơn giản hơn, đặt niềm tin vào những báu vật ấy. Nhẫn thạch (Syngué sabour - Pierre de patience) của Atiq Rahimi trước tiên là một báu vật trong đời sống văn học đương đại thế giới, với giải thưởng Goncourt năm 2008, sau đó là một câu chuyện về một huyền thoại báu vật của những người theo thánh Allad.
KIM QUYÊNSinh năm 1953 tại Thừa Thiên (Huế), tốt nghiệp Đại học Sư phạm Huế năm 1976, sau đó về dạy học ở Khánh Hoà (Nha Trang) hơn 10 năm. Từ năm 1988 đến nay, nhà thơ xứ Huế này lại lưu lạc ở thành phố Hồ Chí Minh, tiếp tục làm thơ và viết báo. Chị là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, hiện nay là biên tập viên Tạp chí Văn hoá Nghệ thuật của Sở Thông tin Văn hoá thành phố Hồ Chí Minh.
VÕ QUANG YẾN Tôi yêu tiếng nước tôi Từ khi mới ra đời làm người Phạm Duy
PHẠM NGUYÊN TƯỜNGKhao khát, đinh ninh một vẻ đẹp trường tồn giữa "cuộc sống có nhiều hư ảo", Vú Đá, phải chăng đó chính là điều mà kẻ lãng du trắng tóc Nhất Lâm muốn gửi gắm qua tập thơ mới nhất của mình? Bài thơ nhỏ, nằm nép ở bìa sau, tưởng chỉ đùa chơi nhưng thực sự mang một thông điệp sâu xa: bất kỳ một khoảnh khắc tuyệt cảm nào của đời sống cũng có thể tan biến nếu mỗi người trong chúng ta không kịp nắm bắt và gìn giữ, để rồi "mai sau mang tiếng dại khờ", không biết sống. Cũng chính từ nhận thức đó, Nhất Lâm luôn là một người đi nhiều, viết nhiều và cảm nghiệm liên tục qua từng vùng đất, từng trang viết. Câu chữ của ông, vì thế, bao giờ cũng là những chuyển động nhiệt thành nhất của đời sống và của chính bản thân ông.
MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHTôi nghe rằng,Rạch ròi, đa biện, phân minh, khúc chiết... là ngôn ngữ khôn ngoan của lý trí nhị nguyên.Chan hoà, đa tình, niềm nỗi... là ngôn ngữ ướt át của trái tim mẫn cảm.Cô liêu, thuỷ mặc, bàng bạc mù sương, lấp ló trăng sao... là ngôn ngữ của non xanh tiểu ẩn.Quán trọ, chân cầu, khách trạm, phong trần lịch trải... là ngôn ngữ của lãng tử giang hồ.Điềm đạm, nhân văn, trung chính... là ngôn ngữ của đạo gia, hiền sĩ.
MAI VĂN HOANTập I hồi ký “Âm vang thời chưa xa” của nhà thơ Xuân Hoàng ra mắt bạn đọc vào năm 1995. Đã bao năm trôi qua “Âm vang thời chưa xa” vẫn còn âm vang trong tâm hồn tôi. Với tôi, anh Xuân Hoàng là người bạn vong niên. Tôi là một trong những người được anh trao đổi, trò chuyện, đọc cho nghe những chương anh tâm đắc khi anh đang viết tập hồi ký để đời này.
NGUYỄN KHẮC PHÊ giới thiệuNhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà phê bình Hoài Thanh (1909-2009)Chúng ta từng biết cố đô “Huế Đẹp và Thơ” một thời là nơi hội tụ các văn nhân, trong đó có những tên tuổi kiệt xuất của làng “Thơ Mới” Việt Nam như Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên…; nhưng nhà phê bình Hoài Thanh lại đến với Huế trong một hoàn cảnh đặc biệt và có thể nói là rất tình cờ.
LÊ TRỌNG SÂM giới thiệuBà sinh ra và lớn lên ở Painpol và Saint-Malo, một đô thị cổ vùng Bretagne, miền đông bắc nước Pháp. Học trung cấp và tốt nghiệp cử nhân văn chương ở thành phố Nice, vùng xanh da trời miền nam nước Pháp. Là hội viên Hội nhà văn Pháp từ năm 1982, nay bà đã trở thành một trong số ít nhà văn Châu Âu đã tiếp thu và thâm nhập sâu sắc vào rất nhiều khía cạnh của văn hoá Việt Nam.
MAI VĂN HOAN giới thiệu Vĩnh Nguyên tên thật là Nguyễn Quang Vinh. Anh sinh năm 1942 (tuổi Nhâm Ngọ) ở Vĩnh Tuy, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Bố anh từng tu nghiệp ở Huế, ông vừa làm thầy trụ trì ở chùa vừa bốc thuốc chữa bệnh cho người nghèo. Thuở thiếu thời anh đã ảnh hưởng cái tính ngay thẳng và trung thực của ông cụ. Anh lại cầm tinh con ngựa nên suốt đời rong ruổi và “thẳng như ruột ngựa”.
LGT: Vài năm lại đây, sau độ lùi thời gian hơn 30 năm, giới nghiên cứu văn học cả nước đang xem xét, nhận thức, và đánh giá lại nền “Văn học miền Nam” (1954 - 1975) dưới chế độ cũ, như một bộ phận khăng khít của văn học Việt Nam nửa sau thế kỷ XX với các mặt hạn chế và thành tựu của nó về nghệ thuật và tính nhân bản. Văn học của một giai đoạn, một thời kỳ nếu có giá trị thẩm mỹ nhân văn nhất định sẽ tồn tại lâu hơn bối cảnh xã hội và thời đại mà nó phản ánh, gắn bó, sản sinh. Trên tinh thần đó, chúng tôi trân trọng giới thiệu bài viết vừa có tính chất hồi ức, vừa có tính chất nghiên cứu, một dạng của thể loại bút ký, hoặc tản văn về văn học của tác giả Nguyễn Đức Tùng, được gửi về từ Canada. Bài viết dưới đây đậm chất chủ quan trong cảm nghiệm văn chương; nó phô bày cảm nghĩ, trải nghiệm, hồi ức của người viết, nhưng chính những điều đó làm nên sự thu hút của các trang viết và cả một quá khứ văn học như sống động dưới sự thể hiện của chính người trong cuộc. Những nhận định, liên hệ, so sánh, đánh giá trong bài viết này phản ánh lăng kính rất riêng của tác giả, dưới một góc nhìn tinh tế, cởi mở, mang tính đối thoại của anh. Đăng tải bài viết này chúng tôi mong muốn góp phần đa dạng hóa, đa chiều hóa các cách tiếp cận về văn học miền Nam. Rất mong nhận được các ý kiến phản hồi của bạn đọc. TCSH