NGUYỄN KHẮC PHÊ
Chưa có ai thống kê và so sánh, nhưng hẳn là trong công cuộc kháng chiến giữ nước của dân tộc ta, không có đề tài nào được sách báo nói đến nhiều như cuộc chiến đấu trên đường Hồ Chí Minh.
Biết bao nhiêu là cán bộ chiến sĩ và tướng lĩnh, nhà văn và nhà báo trong, ngoài nước đã viết về kỳ tích này. Cuộc chiến đấu đã qua gần 20 năm. Chuyện cũ, sách ra đời muộn màng, hơn 50 tác giả - ngoại trừ hai nhà văn, đều là "tay ngang", vậy mà cuốn "Đường Hồ Chí Minh qua Bình Trị Thiên" (ĐHCMQBTT) vẫn lôi cuốn người đọc, có chỗ đứng đáng kể trên thị trường sách báo phong phú mà cũng rất hỗn loạn hiện nay.
Có nhiều yếu tố đã tạo nên nét riêng và sức hấp dẫn của ĐHCMQBTT - một cuốn sách thuộc loại khô khan, "khó đọc" và cũng khó làm cho hay vì là công trình tổng hợp của nhiều người, cách viết lại không nhất quán (có bài là hồi ký, có bài là tư liệu, cũng có bài chỉ là mẩu chuyện kể hoặc gần như là bản báo cáo tổng kết...) đề tài thì lại đã "bị" nhiều cây bút có nghề khai thác.
Điều khác biệt trước hết chính ở nội dung cuốn sách, ở khái niệm "Đường Hồ Chí Minh". Đây cũng là vấn đề có nhiều ý kiến tranh cãi khi nhóm chủ biên tổ chức cuộc trao đổi tại Huế về dự tính làm cuốn sách từ ngày Bình Trị Thiên còn là một tỉnh. Lâu nay, nói đến "đường Hồ Chí Minh", người ta thường chỉ nghĩ đến hệ thống đường trên Trường Sơn trong cuộc chống Mỹ. "Đường Hồ Chí Minh" trong ĐHCMQBTT được mở rộng cả về không gian và thời gian, bao gồm hầu như toàn bộ sự nghiệp giao thông - vận tải - liên tục trên dải đất Bình Trị Thiên suốt từ đầu cuộc kháng chiến chống Pháp đến năm 1975. Vì thế, cuốn sách đã đem đến cho người đọc nhiều tư liệu mới như những bản chụp từ năm 1948 trên đường U Bò, Ba Rèn, hoặc như các diễn biến chi tiết cùng các số liệu chưa từng được công bố trong cuộc chiến đấu độc đáo tiếp chuyển gạo từ tàu Hồng Kỳ (Trung Quốc) ở Hòn La năm 1972...
Cuốn sách "xuất xứ" từ một địa phương, viết về một vùng đất hẹp, nhưng do vị thế đặc biệt của dải đất Bình Trị Thiên về địa lý và trong lịch sử hai cuộc kháng chiến anh dũng của dân tộc ta, nên ĐHCMQBTT đã thể hiện một cách tập trung những sự kiện, những hình ảnh có tính chất tiêu biểu cho cuộc chiến đấu cực kỳ gay go quyết liệt của đất nước ta trong suốt 30 năm (45-75). Dải đất hẹp này là nơi "hội tụ" hầu hết thủ đoạn tàn bạo của kẻ thù và là nơi hội tụ các anh hùng - những anh hùng đã được phong tặng và ngàn vạn tấm gương anh hùng xuất hiện ngày ngày trên mỗi bước đường, mỗi dòng sông.
Ở một số trường hợp khác, loại công trình tổng hợp nhiều người viết với phong cách bút pháp khác nhau thường làm cho cuốn sách trở nên tản mạn, nhợt nhạt và có khi mâu thuẫn, nhưng ở ĐHCMQBTT, chính đặc điểm trên đã tạo ra sự phong phú về nhiều mặt. Những bài viết của các tướng lĩnh (như của các thiếu tướng Lê Nam Thắng, Dương Bá Nuôi, Võ Sở...) các cán bộ lãnh đạo địa phương và ngành giao thông (như của các đồng chí Lê Minh, Phùng Vạn, Hoàng Lanh, Võ Văn Ấn, Lại Văn Ly, Lê Văn Giai...) phác họa các bức tranh có tính toàn cảnh rộng lớn, thì những mẩu chuyện của các chiến sĩ giao liên, của người giữ kho, của bà con dân tộc Vân Kiều là những điểm sáng gây ấn tượng thật sâu sắc. Cũng từ đó, cuộc chiến đấu đã được nhìn với nhiều góc độ khác nhau, sự khác nhau không chống nhau, triệt tiêu lẫn nhau mà ngược lại, giúp cho người đọc hiểu được mọi khía cạnh, hiểu rõ sự thật của cuộc chiến đấu với những hy sinh, những đóng góp to lớn không chỉ của các đơn vị bộ đội, công nhân, thanh niên xung phong mà của toàn dân trên dải đất hẹp nối hai miền đất nước. Những góc nhìn khác nhau của các tác giả đã tạo nên hiệu quả cao, có sức thuyết phục người đọc, chính vì các tác giả đều là người trong cuộc. Rất nhiều câu chuyện, chi tiết sinh động như cách trải ni lông vượt đường 9 để xoá vết chân qua cùng đất đỏ ngày mưa (trong chuyện kể của người giao liên) hay tấm gương người giữ kho Hoàng Hải Sơn bị "bỏ quên" một mình suốt 3 năm trong rừng với nỗi sợ hàng đầu không phải là cọp beo hay bom đạn mà là sợ mất cái máy lửa!... (trong hồi ký của Lê Bá Tạo). Những chi tiết như thế đã làm nên máu thịt của cuốn sách, người ngoài cuộc - dù là cây bút có nghề, cũng khó mà tưởng tượng ra. Mặt khác, chỉ với 3 năm sống đơn độc giữa rừng sâu của người giữ kho ấy, hoặc chỉ với tư liệu quanh một chiến dịch Hòn La, một nhà văn có tài có thể xây dựng nên những tác phẩm văn học có giá trị. (Chúng ta có thể liên hệ với tiểu thuyết "Ông già và biển cả" của Hemingway). Trong ĐHCMQBTT có vô vàn chất liệu quý như thế.
Trong hai cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc ta, hẳn là có đến hàng triệu người đã in dấu chân mình, từng có những kỷ niệm không thể quên trên những chặng đường qua hành lang Bình Trị Thiên. Dọc ĐHCMQBTT, những "cựu chiến binh" từng khoác quân phục hay chỉ là áo xanh công nhân - thậm chí có người chỉ vận độc chiếc quần đùi hay cái khố của dân tộc Vân Kiều, sẽ được gặp lại chính mình và đồng đội với những năm tháng sống oanh liệt và đẹp đẽ. Phải, chính là nét sống đẹp thấm đượm trên mỗi dòng chữ, sáng ngời trên mỗi trang sách đã tạo nên sức hút đối với người đọc. Dù cho cuộc sống còn đầy những thứ nhố nhăng làm ta không bằng lòng và cũng đầy những trò "hấp dẫn" dễ dãi, rẻ tiền, con người có nhân cách vẫn luôn hướng về những gì là Chân, Thiện, Mỹ.
ĐHCMQBTT chưa phải là một cuốn sách toàn bích. Cũng có thể nói, với một đề tài có sức ôm trùm rộng lớn như thế sẽ không bao giờ có một cuốn sách làm thoả mãn mọi người. ĐHCMQBTT chỉ là một trong trăm ngàn viên đá dựng nên tượng đài "Đường Hồ Chí Minh" hùng vĩ. Chắc là sẽ có không ít người trách ban biên soạn đã bỏ sót gương mặt anh hùng này hay cuộc chiến đấu ở cung đường nọ. Đó là điều khó tránh khỏi và chính điều đó đặt trách nhiệm cho tất cả những ai từng gắn bó với kỳ tích độc đáo này của dân tộc ta phải viết tiếp những cuốn sách mới, thu nhập những "hạt ngọc" còn sót lại trên các nẻo đường chiến trận, không để nó bị vùi lấp trong hoang dại và quên lãng. Cũng có thể chỉ ra một số thiếu sót khác của ĐHCMQBTT: Sách viết về sự nghiệp giao thông mà lại thiếu bản đồ những con đường, cách sắp xếp bài vở trước sau hình như không tìm được căn cứ nào hợp lý nên có vẻ thiếu khoa học, một số bài có chỗ trùng lặp đáng lẽ nên gọt bớt, hoặc một số chi tiết chưa thật chính xác... Những sai sót này, ban biên soạn hoàn toàn có khả năng khắc phục, nếu cuốn sách được tái bản.
Rất mong các nhà xuất bản, với trách nhiệm cao trước bạn đọc và lịch sử đất nước, sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho những cuốn sách như ĐHCMQBTT được tiếp tục ra đời.
9-1992
N.K.P
(TCSH52/11&12-1992)
----------------------
(*) Nhà xuất bản Quân Đội Nhân Dân, 1992; 500 trang khổ 13x19.
Hoàng Phủ Ngọc Tường. Sinh ngày 9 tháng 9 năm 1937. Quê ở Triệu Long, Triệu Hải, Quảng Trị. Năm 1960, tốt nghiệp khóa I, ban Việt Hán, Trường đại học Sư phạm Sài Gòn. Năm 1964, nhận bằng cử nhân triết Đại học Văn khoa Huế. Năm 1960 - 1966, dạy trường Quốc Học Huế. Từng tham gia phong trào học sinh, sinh viên và giáo chức chống Mỹ - ngụy đòi độc lập thống nhất Tổ quốc. Năm 1966 - 1975, nhà văn thoát li lên chiến khu, hoạt động ở chiến trường Trị Thiên. Sau khi nước nhà thống nhất, từng là Chủ tịch Hội Văn nghệ Quảng Trị, Tổng biên tập Tạp chí Cửa Việt.
ANH DŨNGLTS: Kết hợp tin học với Hán Nôm là việc làm khó, càng khó hơn đối với Phan Anh Dũng - một người bị khuyết tật khiếm thính do tai nạn từ thuở còn bé thơ. Bằng nghị lực và trí tuệ, anh đã theo học, tốt nghiệp cử nhân vật lý lý thuyết trường Đại học Khoa học Huế và thành công trong việc nghiên cứu xây dựng hoàn chỉnh bộ Phần mềm Hán Nôm độc lập, được giải thưởng trong cuộc thi trí tuệ Việt Nam năm 2001.Sông Hương xin giới thiệu anh với tư cách là một công tác viên mới.
SƠN TÙNGLTS: Trong quá trình sưu tầm, tuyển chọn bài cho tập thơ Dạ thưa Xứ Huế - một công trình thơ Huế thế kỷ XX, chúng tôi nhận thấy rằng, hầu hết các nhà thơ lớn đương thời khắp cả nước đều tới Huế và đều có cảm tác thơ. Điều này, khiến chúng tôi liên tưởng đến Bác Hồ. Bác không những là Anh hùng giải phóng dân tộc, là danh nhân văn hoá thế giới mà còn là một nhà thơ lớn. Các nhà thơ lớn thường bộc lộ năng khiếu của mình rất sớm, thậm chí từ khi còn thơ ấu. Vậy, từ thời niên thiếu (Thời niên thiếu của Bác Hồ phần lớn là ở Huế) Bác Hồ có làm thơ không?Những thắc mắc của chúng tôi được nhà văn Sơn Tùng - Một chuyên gia về Bác Hồ - khẳng định là có và ông đã kể lại việc đó bằng “ngôn ngữ sự kiện” với những nhân chứng, vật chứng lịch sử đầy sức thuyết phục.
NGUYỄN KHẮC PHÊAnh Hoài Nguyên, người bạn chiến đấu của nhà văn Thái Vũ (tức Bùi Quang Đoài) từ thời kháng chiến chống Pháp, vui vẻ gọi điện thoại cho tôi: “Thái Vũ vừa in xong TUYỂN TẬP đó!...” Nhà văn Thái Vũ từng được bạn đọc biết đến với những bộ tiểu thuyết lịch sử đồ sộ như “Cờ nghĩa Ba Đình” (2 tập - 1100 trang), bộ ba “Biến động - Giặc Chày Vôi”, “Thất thủ kinh đô Huế 1885”, “Những ngày Cần Vương” (1200 trang), “Thành Thái, người điên đầu thế kỷ” (350 trang), “Trần Hưng Đạo - Thế trận những dòng sông” (300 trang), “Tình sử Mỵ Châu” (300 trang)... Toàn những sách dày cộp, không biết ông làm “tuyển tập” bằng cách nào?
MINH QUANG Trời tròn lưng bánh tét Đất vuông lòng bánh chưng Dân nghèo thương ngày Tết Gói đất trời rưng rưng...
NGUYỄN THỊ THÁITôi không đi trong mưa gió để mưu sinh, để mà kể chuyện. Ngày ngày tôi ngồi bên chiếc máy may, may bao chiếc áo cho người. Tôi chưa hề may, mà cũng không biết cách may một chiếc Yêng như thế nào.
Nhà thơ Hải Bằng tên thật là Vĩnh Tôn, sinh ngày 3 tháng 2 năm 1930, quê ở thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ông mất ngày 7 tháng 7 năm 1998.
NGUYỄN VĂN HOACuốn sách: "Nhớ Phùng Quán" của Nhà xuất bản Trẻ, do Ngô Minh sưu tầm, tuyển chọn và biên soạn với nhiều tác giả phát hành vào quý IV năm 2003. Cuốn sách có 526 trang khổ 13x19cm. Bìa cứng, in 1000 cuốn. Rất nhiều ảnh đẹp của Nguyễn Đình Toán - nhà nhiếp ảnh chân dung nổi tiếng của Việt nam. Đơn vị liên doanh là Công ty Văn hoá Phương Nam.
ĐÀ LINHĐể có trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ, trước đó quân đội Nhân dân Việt Nam đã có những trận đánh để đời mở ra những khả năng to lớn về thế và lực cho chúng ta. Trong đó Trận chiến trên đường (thuộc địa) số 4 - biên giới Cao Bắc Lạng 1950 là một trận chiến như vậy.
HOÀNG VĂN HÂNLướt qua 30 bài thơ của Ngô Đức Tiến trong “Giọng Nghệ”, hãy dừng lại ở những bài đề tài tình bạn. Với đặc điểm nhất quán, bạn của anh luôn gắn liền với những hoài niệm, với những địa chỉ cụ thể, về một khoảng thời gian xác định. Người bạn ấy hiện lên khi anh “nghĩ về trường” “Thăm trường cũ”, hoặc là lúc nhớ quá phải “Gửi bạn Trường Dùng” “ Nhớ bạn Thanh Hoá”. Bạn của anh gắn với tên sông, tên núi: sông Bùng, sông Rộ, Lạt, Truông Dong, Đồng Tháp.
FAN ANHTrên thế gian này tồn tại biết bao nhiêu báu vật, hoặc những huyền thoại về báu vật, thì cũng gần như hiện hữu bấy nhiêu nỗi đau và bi kịch của con người vốn dành cả cuộc đời để kiếm tìm, bảo vệ, chiếm đoạt hay đơn giản hơn, đặt niềm tin vào những báu vật ấy. Nhẫn thạch (Syngué sabour - Pierre de patience) của Atiq Rahimi trước tiên là một báu vật trong đời sống văn học đương đại thế giới, với giải thưởng Goncourt năm 2008, sau đó là một câu chuyện về một huyền thoại báu vật của những người theo thánh Allad.
KIM QUYÊNSinh năm 1953 tại Thừa Thiên (Huế), tốt nghiệp Đại học Sư phạm Huế năm 1976, sau đó về dạy học ở Khánh Hoà (Nha Trang) hơn 10 năm. Từ năm 1988 đến nay, nhà thơ xứ Huế này lại lưu lạc ở thành phố Hồ Chí Minh, tiếp tục làm thơ và viết báo. Chị là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, hiện nay là biên tập viên Tạp chí Văn hoá Nghệ thuật của Sở Thông tin Văn hoá thành phố Hồ Chí Minh.
VÕ QUANG YẾN Tôi yêu tiếng nước tôi Từ khi mới ra đời làm người Phạm Duy
PHẠM NGUYÊN TƯỜNGKhao khát, đinh ninh một vẻ đẹp trường tồn giữa "cuộc sống có nhiều hư ảo", Vú Đá, phải chăng đó chính là điều mà kẻ lãng du trắng tóc Nhất Lâm muốn gửi gắm qua tập thơ mới nhất của mình? Bài thơ nhỏ, nằm nép ở bìa sau, tưởng chỉ đùa chơi nhưng thực sự mang một thông điệp sâu xa: bất kỳ một khoảnh khắc tuyệt cảm nào của đời sống cũng có thể tan biến nếu mỗi người trong chúng ta không kịp nắm bắt và gìn giữ, để rồi "mai sau mang tiếng dại khờ", không biết sống. Cũng chính từ nhận thức đó, Nhất Lâm luôn là một người đi nhiều, viết nhiều và cảm nghiệm liên tục qua từng vùng đất, từng trang viết. Câu chữ của ông, vì thế, bao giờ cũng là những chuyển động nhiệt thành nhất của đời sống và của chính bản thân ông.
MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHTôi nghe rằng,Rạch ròi, đa biện, phân minh, khúc chiết... là ngôn ngữ khôn ngoan của lý trí nhị nguyên.Chan hoà, đa tình, niềm nỗi... là ngôn ngữ ướt át của trái tim mẫn cảm.Cô liêu, thuỷ mặc, bàng bạc mù sương, lấp ló trăng sao... là ngôn ngữ của non xanh tiểu ẩn.Quán trọ, chân cầu, khách trạm, phong trần lịch trải... là ngôn ngữ của lãng tử giang hồ.Điềm đạm, nhân văn, trung chính... là ngôn ngữ của đạo gia, hiền sĩ.
MAI VĂN HOANTập I hồi ký “Âm vang thời chưa xa” của nhà thơ Xuân Hoàng ra mắt bạn đọc vào năm 1995. Đã bao năm trôi qua “Âm vang thời chưa xa” vẫn còn âm vang trong tâm hồn tôi. Với tôi, anh Xuân Hoàng là người bạn vong niên. Tôi là một trong những người được anh trao đổi, trò chuyện, đọc cho nghe những chương anh tâm đắc khi anh đang viết tập hồi ký để đời này.
NGUYỄN KHẮC PHÊ giới thiệuNhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà phê bình Hoài Thanh (1909-2009)Chúng ta từng biết cố đô “Huế Đẹp và Thơ” một thời là nơi hội tụ các văn nhân, trong đó có những tên tuổi kiệt xuất của làng “Thơ Mới” Việt Nam như Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên…; nhưng nhà phê bình Hoài Thanh lại đến với Huế trong một hoàn cảnh đặc biệt và có thể nói là rất tình cờ.
LÊ TRỌNG SÂM giới thiệuBà sinh ra và lớn lên ở Painpol và Saint-Malo, một đô thị cổ vùng Bretagne, miền đông bắc nước Pháp. Học trung cấp và tốt nghiệp cử nhân văn chương ở thành phố Nice, vùng xanh da trời miền nam nước Pháp. Là hội viên Hội nhà văn Pháp từ năm 1982, nay bà đã trở thành một trong số ít nhà văn Châu Âu đã tiếp thu và thâm nhập sâu sắc vào rất nhiều khía cạnh của văn hoá Việt Nam.
MAI VĂN HOAN giới thiệu Vĩnh Nguyên tên thật là Nguyễn Quang Vinh. Anh sinh năm 1942 (tuổi Nhâm Ngọ) ở Vĩnh Tuy, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Bố anh từng tu nghiệp ở Huế, ông vừa làm thầy trụ trì ở chùa vừa bốc thuốc chữa bệnh cho người nghèo. Thuở thiếu thời anh đã ảnh hưởng cái tính ngay thẳng và trung thực của ông cụ. Anh lại cầm tinh con ngựa nên suốt đời rong ruổi và “thẳng như ruột ngựa”.
LGT: Vài năm lại đây, sau độ lùi thời gian hơn 30 năm, giới nghiên cứu văn học cả nước đang xem xét, nhận thức, và đánh giá lại nền “Văn học miền Nam” (1954 - 1975) dưới chế độ cũ, như một bộ phận khăng khít của văn học Việt Nam nửa sau thế kỷ XX với các mặt hạn chế và thành tựu của nó về nghệ thuật và tính nhân bản. Văn học của một giai đoạn, một thời kỳ nếu có giá trị thẩm mỹ nhân văn nhất định sẽ tồn tại lâu hơn bối cảnh xã hội và thời đại mà nó phản ánh, gắn bó, sản sinh. Trên tinh thần đó, chúng tôi trân trọng giới thiệu bài viết vừa có tính chất hồi ức, vừa có tính chất nghiên cứu, một dạng của thể loại bút ký, hoặc tản văn về văn học của tác giả Nguyễn Đức Tùng, được gửi về từ Canada. Bài viết dưới đây đậm chất chủ quan trong cảm nghiệm văn chương; nó phô bày cảm nghĩ, trải nghiệm, hồi ức của người viết, nhưng chính những điều đó làm nên sự thu hút của các trang viết và cả một quá khứ văn học như sống động dưới sự thể hiện của chính người trong cuộc. Những nhận định, liên hệ, so sánh, đánh giá trong bài viết này phản ánh lăng kính rất riêng của tác giả, dưới một góc nhìn tinh tế, cởi mở, mang tính đối thoại của anh. Đăng tải bài viết này chúng tôi mong muốn góp phần đa dạng hóa, đa chiều hóa các cách tiếp cận về văn học miền Nam. Rất mong nhận được các ý kiến phản hồi của bạn đọc. TCSH