Trong kiến trúc cung đình Nguyễn tại Huế, hình thức nhà tạ có mặt ở khắp nơi: Hoàng cung, Hành cung, Biệt cung và ở cả các lăng tẩm đế vương.
Hai ngôi nhà tạ ven bờ hồ Lưu Khiêm
Trong lịch sử kiến trúc truyền thống Việt, hình thức kiến trúc nhà tạ có lẽ xuất hiện từ khá sớm và tương tự như ở Trung Hoa, nó cũng sớm được cung đình hoá rồi gần như trở thành một hình thức kiến trúc độc quyền của vua chúa. Theo các nguồn sử liệu, dưới tất cả các triều đại vua chúa Việt Nam, hình thức nhà tạ xuất hiện khá phổ biến tại những chốn phục vụ nhu cầu ăn chơi của tầng lớp thống trị, như hành cung, ly cung, biệt cung...Chúng là những kiến trúc tương đối đơn giản, được dựng bên bờ mặt nước như hồ, ao, sông, suối (nguyên chữ tạ có nghĩa là ngôi nhà dựng trên mặt nước-vì thế mà còn gọi là thuỷ tạ) với nhiều hình thức khác nhau. Nhưng phải đến thời Nguyễn, hình thức kiến trúc nhà tạ mới trở nên thật sự phong phú về số lượng và hình thức.
Đây là ngôi nhà tạ nằm trong tổ hợp kiến trúc cung Diên Thọ, khu vực dành riêng cho các bà Thái hậu triều Nguyễn, rộng gần 1.8 ha, nằm ở phía tây trong Hoàng Thành. Trường Du Tạ được dựng năm 1849 để chuẩn bị cho lễ Ngũ tuần đại khánh tiết của bà Thái hậu Từ Dũ, mẹ vua Tự Đức. Tạ dựng trên một chiếc hồ hình vuông xinh xắn, rộng 530 m2, ở phía đông toà điện chính, mặt hướng về phía nam. Kết cấu tạ kiểu nhà Rường truyền thống Huế với thức vuông (phương đình), một gian bốn chái, 16 cột trụ, mái lợp ngói ống tráng men xanh. Cả ba mặt đông, tây và nam của Trường Du Tạ đều có hành lang bao bọc. Về sau hành lang này bị dỡ bỏ, phần phía nam thì cải tạo thành một ngôi nhà vỏ cua với tên gọi Lương Phong Đình.
nhất của Huế dù đây chỉ là một ngôi nhà tạ có quy mô vừa phải. Ca dao xứ Huế có câu: “ Chiều chiều trước bến Văn Lâu, Ai ngồi ai câu ai sầu ai thảm, Ai thương ai cảm ai nhớ ai trông..” chính là chỉ vị trí thơ mộng này.
Ngôi nhà tạ bé nhỏ này cũng rất nổi tiếng bởi nó vốn là một bộ phận không thể thiếu được của quần thể kiến trúc lăng Tự Đức. Dũ Khiêm Tạ được dựng vào năm 1864, cùng với nhiều công trình khác của Khiêm Cung (sau khi vua băng và được táng vào đây mới gọi là Khiêm Lăng). Tự Đức là một ông vua thi sĩ và Khiêm Cung, một biệt cung kiêm lăng mộ của ông phản ánh rất rõ điều này. Gần 50 công trình kiến trúc lớn nhỏ được bố trí hài hòa trong một không gian thiên nhiên, rộng trên 150.000m2. Nổi bật trong số đó bởi vẻ đẹp trữ tình, giàu chất thơ là hai ngôi nhà tạ ven bờ hồ Lưu Khiêm: Dũ Khiêm Tạ và Xung Khiêm Tạ.
Khác với Dũ Khiêm Tạ ở phía bờ hồ đối diện vốn là một bến thuyền của nhà vua, Xung Khiêm Tạ là toà nhà dành làm nơi ông câu cá, ngắm trăng, làm thơ..Quy mô công trình này lớn hơn Dũ Khiêm Tạ nhiều. Đây là một toà nhà kép theo lối “ trùng thiềm điệp ốc” rất phổ biến trong kiến trúc cung đình Nguyễn. Nhà chính (chính đường) cấu trúc như một ngôi nhà Rường lớn, nối trực tiếp với nhà trước (tiền đường) chỉ bé như một nhà vỏ cua thông qua một cột trụ chung. Phần phía trên của cột trụ này đặt một máng xối mà hai đầu đều được trang trí bằng hình cá gáy (cá chép) đang há miệng nhả nước rất độc đáo. Phần thân của nhà chính có vách ván che cả ba mặt (mặt sau và hai bên) nhưng toàn bộ nhà trước lại để trống tương tự như ở Dũ Khiêm Tạ. |
||||
Theo TS. Phan Thanh Hải (hueworldheritage.org.vn) |
Vua Gia Long vốn không phải là con người hiếu sát. Ngay cả việc đối với họ Trịnh, hai bên đánh nhau ròng rã 45 năm trời, vậy mà khi đã lấy được nước (1802), vẫn đối xử tốt với con cháu họ Trịnh chứ đâu đến cạn tàu ráo máng như với Tây Sơn?
Các hoàng đế nước Việt xưa phần lớn giỏi chữ Hán, biết thơ văn, triều Lý, Trần, Lê, Nguyễn đời nào cũng có các tác phẩm ngự chế quý giá. Nhưng tất cả các tác phẩm ấy đều nằm trong quỹ đạo Nho Giáo, dùng chữ Hán và chữ Nôm để diễn đạt cảm xúc về tư tưởng của mình.
Trái với sự nổi tiếng của lăng mộ các vua nhà Nguyễn, lăng mộ 9 chúa Nguyễn ở Huế không được nhiều người biết đến...
Nhắc đến vua Minh Mạng, người đời nghĩ đến ngay hình ảnh của một quân vương nổi tiếng quyết đoán và giai thoại về năng lực giường chiếu phi thường.
Chiều 3/10, chiếc xe kéo của Hoàng thái hậu Từ Minh, mẹ vua Thành Thái chính thức được chuyển vào Đại sứ quán Việt Nam tại Pháp để chuẩn bị đưa về Việt Nam.
Đèo Hải Vân nằm trên dãy Trường Sơn, ở ranh giới 2 tỉnh Thừa Thiên-Huế (phía bắc) và TP.Đà Nẵng (phía
Cứ đến gần cuối năm, khi lúa trên rẫy đã đến độ chín vàng. Trời đông cũng đang se sắt lạnh, sương trắng bồng bềnh bay trên đỉnh núi A Túc là lúc mà toàn thể dân làng dù là tộc người Pacôh, TàÔi, Cơtu hay Pa hy.
Là điểm du lịch nổi tiếng của Thừa Thiên - Huế, Bạch Mã có rất nhiều nơi để tham quan như: Thác Đỗ Quyên, Ngũ Hồ, Vọng Hải Đài với vẻ đẹp của núi trời như một bức tranh thủy mặc.
Sau chiến tranh, gần 2/3 trong tổng số gần 300 công trình kiến trúc nghệ thuật cung đình của cố đô Huế trở thành phế tích, số còn lại trong tình trạng hư hại, xuống cấp nghiêm trọng. Cùng với việc nỗ lực hàn gắn vết thương chiến tranh, tỉnh Thừa Thiên - Huế đã mở cuộc vận động bảo vệ di tích Huế và đạt kết quả to lớn.
Được xây dựng cách đây hơn 400 năm với bao biến động nhưng chùa Thiên Mụ vẫn giữ được vẻ uy nghi, thanh tịnh và cổ kính bên dòng sông Hương...
Không nơi đâu người phụ nữ lại thích mặc áo dài như ở Huế. Thậm chí, chiếc áo dài đã trở thành biểu tượng của các cô gái Huế. Điều đó đã làm cho du khách khi đến với Huế nhiều khi phải ngẩn ngơ khi có dịp được ngắm nhìn, chiêm ngưỡng.
Thời 13 vua Nguyễn (1802-1845) trị vì triều đại phong kiến cuối cùng Việt Nam đóng kinh đô tại Huế đã ghi nhận một số hoạt động khá phong phú của ngựa, dù thời này ngựa ít được dùng vào hoạt động quân sự.
Trong tất cả các triều đại phong kiến, duy nhất ở cố đô Huế có Bình An Đường là nhà an dưỡng và khám, chữa bệnh đặc biệt chỉ dành riêng cho các thái giám, cung nữ (thời vua nhà Nguyễn).
Huế, miền đất cố đô nằm ở miền trung Việt Nam, vẫn được biết đến như một thành phố thơ mộng và lãng mạn.
Đối với di sản văn hóa của dân tộc, tài liệu châu bản là một di sản có giá trị lớn. Đó là ký ức của lịch sử, là nguồn sử liệu gốc có ý nghĩa to lớn đối với việc nghiên cứu và biên soạn lịch sử dân tộc. Tuy nhiên, hầu hết các triều đại phong kiến Việt Nam đều không còn lưu giữ được nguồn tài liệu quý báu này, trừ triều Nguyễn (1802-1945), do những điều kiện lịch sử đặc biệt.
Hình ảnh thiên nhiên, con người và những lăng tẩm đền đài của xứ Huế vương vấn bước chân du khách mỗi lần có dịp ghé qua...
Làng Mỹ Lợi (xã Vinh Mỹ) và làng An Nông (xã Lộc Bổn, huyện Phú Lộc, Thừa Thiên- Huế) là nơi lưu giữ những tài liệu chứng minh chủ quyền biển đảo Hoàng Sa của nước ta. Những tài liệu quý hàng trăm năm tuổi được người dân các ngôi làng này xem như báu vật và dốc sức giữ gìn.
Ngày 15/8/1945, Nhật tuyên bố đầu hàng Đồng Minh cũng là lúc ở Việt Nam, các thế lực bước vào một cuộc chạy đua nước rút để nắm quyền định đoạt tương lai nước này sau 80 năm là thuộc địa Pháp.
Khải Định đã tìm được một thế đất dường như “sinh ra để làm nơi ngả lưng cho một linh hồn quyền quý”…
Chỉ xếp sau Hà Nội, cũng giống như Quảng Nam, Thừa Thiên-Huế là tỉnh sở hữu cùng lúc 2 di sản đã được Unesco công nhận, đó là Di sản văn hóa phi vật thể Nhã nhạc Cung đình và Di sản văn hóa thế giới Cố đô Huế.