Ngôn ngữ như một phương tiện truyền đạt thông tin, đối với thi sĩ, ngôn ngữ là công cụ để truyền cảm xúc của mình đến mọi người. Người làm thơ, điều quý nhất là cảm xúc. Nghệ thuật tu từ là phần kế tiếp để tác giả chia sẻ trọn vẹn cảm xúc của chính mình đến với mọi người.
Ảnh: internet
Thi tài là ở chỗ, tác giả khiến nhiều người đọc rơi vào thế giới thơ của mình một cách tinh tế, như những cuộc rượu giang hồ tràn nghĩa khí. Hà Túc Trí là người như vậy, khi những cuộc phiêu lãng của anh tưởng chỉ dành riêng cho những người trong cuộc cảm nhận, nhưng qua thi khí của tác giả, những kẻ ngoài cuộc như đã đồng hành trong cuộc lữ miên man tận những miền sơn cước. Phải chăng cái tình của con chữ đã đưa người đọc rơi vào cảnh giới phong trần, mà thi hào Nguyễn Du đã nói: “Bắt phong trần phải phong trần/ Cho thanh cao mới được phần thanh cao”.
Thơ là phần hồn của tác giả, phải kinh qua nhiều chặng đường biên ải, nơi heo hút bóng con người, Hà Túc Trí mới nhận ra “Rượu giang hồ uống đâu phải dễ”, để mỗi cuộc đi là nghìn trùng níu gọi. Tất nhiên, phải nhờ những bước chân từng trải và mạch ngầm tiềm tàng trong thăm thẳm tâm hồn mới có thể truyền cảm thụ của mình đến mọi người bằng những câu chữ rất thơ.
Xin giới thiệu chùm thơ từ thập niên 90, mang nhiều màu sắc biên tái của Hà Túc Trí đến với độc giả.
Lê Huỳnh Lâm (gt)
HÀ TÚC TRÍ
Rượu giang hồ ở biên giới
Mầy tao một vò rượu đế
Xin nâng chén tiễn mây trôi về phương Bắc
Cơn mưa chiều xanh ngoài biên ải - chừ thiết tha gọi gió quanh thành
Xin nâng chén phương Nam bài hành ta đã quên
Chiều nay phiêu du dừng gót
Quê nhà khuất sau cụm rừng xanh
Rượu giang hồ uống đâu phải dễ?!
Máu chảy bao lần đục ngầu mắt dại xấp tiền tanh
Nay tóc ngả hai màu - bụi đường còn vương trên vai
Để chiều nay hai ta chung vò rượu giang hồ
Hai chén nổ buồn vui đời bụi cát
Chiều nay mưa xuân giăng lưng đèo
Những người kia - kẻ đời xanh thẳm - kẻ phong trần
Chén rượu này ta xin rưới xuống:
Biên giới không còn ngăn cách chi nhau
Để sinh tử chỉ còn trong một chén
Uống đi mầy! Còn nữa chén phần tao!
Biên giới Việt Trung 1995, tặng Chen Fu Hai, một người Hoa Lục yêu hòa bình
Chiều sơn cước
Ta trẩy lòng buồn lên mạn ngược
Sương chiều đồi phủ bước chân mây
Rừng mưa trong ấy sầu thấp thoáng
Bóng ngựa về xuôi nhớ cỏ đầy
Còn ai phố cũ cho ta nhắn
Xin giữ gìn thơm chút đợi chờ
Ở đây sốt váng người áo mỏng
Chiều gùi mắt dại nhặt hoàng hôn.
Pác Rằng, Cao Bằng, 1994
Rượu chiều quan san
Xe dừng vừa cạn ngày biên ải
Chẳng hẹn mà chung quán giang đầu
Liêu xiêu chiều choạng màu thu sẫm
Mưa trắng tràn trời cơn bão qua
Ngày kia suýt chết trên đất lạ
Chừ say cùng bạn ở quê nhà
Mưa ngàn đã thẳm màu biên tái
Buồn lên men rượu rót đời xa
Ngồi chung ai hiểu lời mưa gió
Chén đắng làm cay mắt giang hồ
Không chờ người tiễn chiều sông Hiếu
Bẻ kiếm lưng trời gió bụi bay
Ta lãng du hề! Nơi xứ khách
Ngồi co ghế chật, hẹp chi lòng
Đi nhờ lại được mời uống rượu
Mưa chiều biên giới biết về đâu?
Lao Bảo, 07/1993
(Biên giới Việt Lào)
Gió về Tùng Môn Trang
… Ta từng có nỗi nhớ rừng tha thiết
Trong những chiều say bão tố dậy kinh thành
Xa mãi ngàn xa sơn cước ơi
Chiều mây châu thổ nhớ chưa vơi
Suối reo nẻo ấy đâu hài cỏ
Để dấu rêu xưa đá phủ mờ
Mây trắng nửa trời bay suốt mộng
Mở cửa am chiều mộng trống không
Ta hề - phương sĩ mà vô đạo
Đợi tiếng kinh khuya dưới cội đào
Tiếng cây than gió lay hồn đá
Đá vết lăn trầm cũng biệt ly
Sơn cốc ta hát vang trời đất
Tiếng vọng buồn thiu ngủ dưới chiều
Mõ chuông ta gõ hồ trống trận
Âm vẫn tang thương - vẫn tiêu điều
Bồi hồi tiếng địch réo đồi Tây
Trừng không rừng dựng cỏ thức mây
Em ở phố còn hong áo lụa
Ta quên ngày cũ những chiều say
Ơi thu gió trắng buồn khô mắt
Gió cứ về đi hoa nắng bay
Em đã một lần trong chăn chiếu
Mà đây gác quạnh chiếu chăn buồn…
Tùng Môn Trang, Đà Lạt, 1971
(SDB10/09-13)
LTS: ...Với gần 30 công trình nghiên cứu, lý luận - phê bình văn chương có giá trị khoa học, GS. Hà Minh Đức đã trải qua một đời lao lực và giảng dạy để sống, yêu, say và viết... Và không chỉ có thế, GS.Hà Minh Đức còn là tác giả của 3 tập bút ký và 4 tập thơ giàu sự sống thật, giàu phẩm chất nhân văn và thi sĩ.Thơ Hà Minh Đức nồng ấm tình đời, tình người; nhưng với tình yêu, ẩn chứa bên trong buồn thương và đơn độc. Nỗi sầu xứ và những hoài niệm ngày xanh qua từng “giọt nghĩ trong đêm” của tác giả đã làm nên những dư âm buồn xa và những thao thức thơ chăng mắc lòng người.Sông Hương xin trân trọng giới thiệu chùm thơ mới của tác giả.
Ngọc Tuyết - Ngô Thiên Thu - Tuệ Nguyên - Phạm Trường Thi - Lưu Xông Pha
Lâm Thị Mỹ Dạ - Lê Khánh Mai - Thu Nguyệt - Phan Thị Thanh Nhàn - Song Hảo - Nguyễn Thị Hồng - Trần Thị Trường - Phạm Thị Anh Nga - Thuý Nga - Châu Thu Hà - Phan Dịu Hiền - Dương Bích Hà - Lê Hoàng Anh - Ninh Giang Thu Cúc - Lê Minh Nguyệt - Nguyễn Đăng Chế
Sinh tại Ngọc Hà, Ba Đình, Hà NộiHội viên Hội Nhà văn Hà NộiCác tập thơ đã in: + Gửi con lời ru + Em đi ngang chiều gió + Cỏ mặt trờiCác giải thưởng: + Giải nhất cuộc thi thơ Trung tâm Văn hoá Q 3, TP.HCM + Giải ba cuộc thi thơ lục bát Tuần báo Văn nghệ
Trần Hoàng Phố - Vũ Thị Khương - Trần Hữu Lục - Lê Tấn Quỳnh - Bùi Đức Vinh - Nguyễn Công Bình - Ngô Cang - Văn Lợi - Hà Huy Hoàng - Nguyễn Ngọc Hạnh
Thần Đinh uy nghiêm kiêu dũngThanh tao tạc dáng bên trờiĐế vương ngầm ghen thế núiVung roi phạt BÁT NGHĨA SƠN...
Họ và tên đầy đủ: Nguyễn Công Nam - Sinh 1953Bút danh: Công NamQuê: Hùng Tiến - Nam Đàn - Nghệ AnLà hội viên HỘI VĂN HỌC NGHỆ THUẬT HẢI PHÒNGTác phẩm đã xuất bản: - TIẾNG VỌNG ĐÊM MƯA -Thơ (NXB Hải Phòng). - Giải thưởng cuộc thi thơ 2001 - 2003 của TCSH.
Trên bầu trời, một vì sao đỏ chóiRót ánh sáng vào tháng ngày hấp hốiMáu sao rơiGiọt lịm lưng thềmCây nến tim tôi bùng cháy...
Nguyễn Sĩ Cứ - Võ Thị Hồng Tơ - Hoàng Cầm - Đào Duy Anh - Hoàng Ly Thạch Thảo - Võ Văn Luyến - Phạm Duy Tân
Tên khai sinh: Vương Oanh NhiSinh năm 1947 tại Hải Phòng.Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam .Học viên khoá IV Trường viết văn Nguyễn DuTác phẩm chính: + Lối nhỏ (1988) + Bài mẫu giáo sáng thế(1993)
CHÂU NHONăm 1968 tại mặt trận biên giới Việt - Lào, trung đội chúng tôi sau 3 ngày quần nhau với địch, 3 đồng chí hy sinh và trung đội trưởng bị thương nặng. Trước khi trút hơi thở cuối cùng, đêm đó trung đội trưởng đã “nói chuyện với người yêu” trong cơn mê sảng. Xúc động trước tình cảm đó, tôi đã chuyển lời của người liệt sĩ thành bài thơ gửi về cho người yêu của anh ở hậu phương là cô Lê Thị Ánh, giáo viên cấp I ở một bản thuộc huyện Quế Phong, Nghệ An.
Hà Duyên - Nguyễn Thụy Kha - Nguyễn Thanh Văn - Nguyễn Văn Quang - Phạm Xuân Dũng - Lê Tuấn Lộc - Hồng Thị Vinh
Phạm Tấn Hầu - Lê Ngã Lễ - Lương Ngọc An - Lê Bá Thự - Phạm Thị Anh Nga - Đoàn Mạnh Phương - Trịnh Văn - Nhất Lâm - Hoàng Lê Ân.
NGUYỄN VĂN DINHCâu thơ BácThuở chăn đơn Bác đắp trong hangỐc suối, cơm ngô, nõn chuối ngànThơ Người vẫn viết cho ta đọc"Cuộc đời cách mạng thật là sang".
Nguyễn Trọng Tạo - Diệp Minh Luyện - Nguyễn Việt Tư - Lê Viết Xuân - Trần Lan Vinh - Mai Văn Phấn
Trương Đăng Dung - Văn Công Hùng - Nguyễn Thụy Kha - Văn Công Toàn - Vĩnh Nguyên - Phan Tường Hy
Vũ Thị Huyền - Công Nam - Nguyễn Cảnh Tuấn - Đặng Hiển - Trần Đôn - Nguyễn Văn Hùng - Nguyễn Thị Thái
LTS: Binh đoàn Hương Giang thành lập ngày 17.4.1974, mang tên dòng sông thơ mộng. Sau khi giải phóng Huế, Binh đoàn tham gia chiến dịch thống nhất Tổ quốc, tiến thẳng vào Dinh Độc Lập ngày 30.4.1975. Sống lại những ngày tháng oai hùng đó, Nguyễn Trọng Bính, một sỹ quan của Binh đoàn đã viết trường ca “Nhật ký dòng sông” năm 2008. Tác phẩm này vừa được Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam xếp loại xuất sắc trong đợt sơ kết Cuộc vận động sáng tác tiểu thuyết, trường ca về đề tài Chiến tranh cách mạng và lực lượng vũ trang nhân dân 2006 - 2008. Dưới đây, Sông Hương xin giới thiệu cùng bạn đọc một trong số 11 chương của trường ca này.
CAO XUÂN THÁISinh năm: 1948 - Tại Vương quốc Thái LanVề nước năm 1960Quê quán: Hoa Lư - Ninh BìnhHội viên Hội Nhà văn Việt NamPhó Chủ tịch Hội VHNT Hà Giang - Phó Tổng biên tập Tạp chí Văn nghệ Hà Giang.
Nguyễn Đông Nhật - Chử Văn Long - Lê Hoàng Anh - Trịnh Lữ - Đào Trung Việt - Nguyễn Trần Thái - Nguyễn Thị Anh Đào - Nguyễn Loan - Nguyễn Văn Quang