Nhớ con!

10:11 28/10/2008
NGUYỄN TRỌNG HUẤNBạn tôi là nhà thơ. Thơ anh hay, rất nổi tiếng, nhiều người ái mộ.Năm 1975, anh cùng đoàn quân chiến thắng tiến vào giải phóng Sài Gòn, trụ lại thành phố làm đại diện một tờ báo, chốt trực cơ quan. Ở rừng lâu, nằm lán, ngủ võng cũng quen, nay về phố thị, căn hộ hai ba phòng, tự nhiên thấy trống trải, trằn trọc. Hoà bình rồi, cần ổn định cuộc sống, việc đầu tiên là đón mẹ con nó vào.

Cô thôn nữ xinh như huê, lốc thốc bế con vào thành phố, nhà cao tầng, nước máy đèn điện, tiện thì tiện thật, nhưng nó cứ thế nào. Nhớ tiếng gà kêu, chó sủa, nhớ mùi lúa chín mỗi chiều theo gió đồng thổi rào rạt trên đầu ngọn tre. Nhớ cả cái mùi nồng nồng phả ra từ chuồng trâu có mấy con đang lười biếng nằm nhá cỏ. Nhớ là vậy, nhưng gái theo chồng, rồi cũng quen. Thành phố nhiều cái sướng. Nước non chả phải gánh, cứ mở vòi là có, nhưng vẫn hôi hôi thế nào. Chẳng bằng nước giếng quê mình, ngọt lừ, mát lạnh. Đường phố cứ như những dòng sông, tuôn chẩy toàn người, thành dòng, thành đợt, xanh đỏ đủ màu, cũng  vui mắt.

Lương ba cọc ba đồng, để nuôi con, việc đầu tiên là phải kiếm. Cách kiếm đơn giản nhất là chăn nuôi. Chả phải học ai, “toi loét” thì rộng, trắng tinh, không lẽ cứ vào đấy ngồi suốt ngày. Thả một chú heo, chỉ nhỉnh hơn con mèo thôi mà. Lúc đói nó gào, nghe cũng vui tai. Bố nó nấu rượu, nghề gia truyền, không dùng thì phí, hèm, bã cho vào nồi cám. Rượu bỏ mối hàng cơm cuối phố, chiều chiều mấy xô nước rác xách về, chú heo con sướng nhá. Đi làm cả ngày, về đến nhà lại tối mắt tối mũi, mấy chậu hoa ngoài ban công rỗi đâu mà ngắm. Luống hành, chậu ớt thay vào, tươi ngon mà đỡ phải mua, thì  cũng vẫn cứ sướng như ở nhà quê vậy.

Tin nhà thơ nấu rượu, mà rượu ngon, kỹ thuật gia truyền lan nhanh trong bạn bè. Nhấp ly rượu nhà cất, đọc cho nhau nghe mấy vần thơ mới viết. “Tửu phùng tri kỷ” còn cái sướng nào bằng! Nhớ lại những năm tháng ở rừng, rau rừng nấu thịt hộp, thơ lính, bài “Cây khoai môn” thằng nào nhớ không? “Trên rừng nhớ nhất cây khoai môn/ củ nó luộc lên ăn rất ngon/ dọc nó nấu canh ăn cũng được/ lá nó hao hao giống cái...” Và rượu say. Và cười nghiêng ngả.

Rồi thì khách ở quê ra. Ngủ lại vài đêm đi thăm thành phố. Lòng rộng còn hơn nhà rộng. Lúc đông, trải chiếu ra hành lang. Gió ù ù, đèn thành phố sáng suốt đêm, còn hơn cả trăng rằm quê mình. Rượu nhà nấu bày ra, kể chuyện quê ta đô thị hoá: “Xã ta nay có số nhà/ làng ta nay đã đổi ra thành phường”. Rả rích thâu đêm. Nhưng chả có lò rượu nào, chuồng heo nào kham nổi cái tốc độ tràn cung mây ấy. Chỉ vài tháng, heo đi đàng heo, chõ đi đàng chõ. Dẹp tiệm. Tính kế khác.

Bạn cùng quê, gặp nhau cà phê quán cóc, rút gói ba số mới cứng ra mời. “Sang quá nhỉ, Làm lớn hả?”. “Lớn gì đâu, cán bộ chi viên, trường cấp một, phường ven đô. Nuôi heo, có lãi, sắm chiếc xích lô, chiều chiều chở khách. Kiếm được. Muốn? Tớ truyền nghề. Thong dong lắm ông ơi. Ngày nào cũng dạo phố, gió mát trăng thanh, khoẻ người, lại có tiền”.
Lớp đào tạo lái xích lô tại chức, miễn phí bắt đầu.
Đúng hẹn, khoảng sau mười giờ tối, anh bạn đến đón đi. Ra chỗ trung tâm, đường rộng, hồi đó còn vắng. Đổi chỗ cho nhau, quẹo trái, quẹo phải, vòng số tám, ghếch càng chạy hai bánh... chỉ cỡ một tuần là “rành sáu câu”. Khuya tan lớp, hàn huyên bên quán cháo lòng góc phố. Rượu nhà mang đi, cháo lòng đêm bà này nấu được. “Vấn đề là kiếm được khách. Chỗ tớ hồi đầu, chiều nào cũng có mấy cô gái, mắt xanh môi đỏ, gọi chở ra công viên. Tưởng đi hóng gió, hoá ra đi làm điếm. Hôm nào trúng, nó bao ăn mệt nghỉ”. “Còn hôm ế?”. “Thì nhịn chứ sao”. “Sao không lôi  vào chỗ vắng vắng bắt nó... thanh toán?”. “Ôi dào! Hồi mới gặp, nhìn cứ tưởng tiên. Nay tối nào cũng chở chúng nó đi, cứ nghĩ đến cái cối giã cua ở quê mình. Kinh bỏ mẹ!”.

Học xích lô để đi chở đĩ! Kế hoạch bất khả thi. Tìm cách khác vậy.
Loay hoay rồi cũng qua. Làm thơ, viết báo, viết sách, ai thuê gì làm nấy, chịu khó tùng tiệm, không những đủ ăn, cũng còn dư chút đỉnh. Nhưng thằng cu năm nào mẹ nó bế vào, nay lớn phổng, sắp thành một chàng trai bảnh rồi. Lại con em nó, khai sinh thành phố hẳn hòi. Học hành là một chuyện, còn tương lai? Không ở chung cư mãi được, thằng cu nghịch như quỷ. Không như con người ta lên xuống bằng cầu thang. Nó ư? Cứ theo tay vịn tụt cái ào, mấy cái ào là xuống đến đất. Còn lên? Cũng không như người ta, nó lên nhà bằng ống cống thoát nước, thoăn thoắt như khỉ trèo cây! Hàng xóm không dám kêu, sợ nó giật mình. Để về mách bố nó.

Sang nhượng, trao đi đổi lại vài lần rồi cũng được một căn tạm coi như ý. Nhất cận thị, nhị cận giang. “Thị” thì ngay đầu hẻm, còn “giang” thì có con kênh nước đen chảy sau nhà. Chỗ này buôn bán được. Không gì hay hơn mở quán cháo vịt tiết canh. Tiết canh hãm kiểu quê, có úp ngược vỗ đít cũng chả long chân được. Kiếm được, rồi cất nhà. Nhà thì thế này nói để mẹ nó nghe: “Một trệt, hai lầu, một sân thượng. Về hưu, hai vợ chồng lên đấy, ăn lương hưu, ngắm trăng, làm thơ. Đọc mẹ nó nghe mấy câu thơ mới làm. Còn anh em nó, có gia đình, mỗi đứa một lầu, tầng trệt không mở quán thì cho thuê. Sống được”.
Năm tháng cứ thế trôi đi, thằng cu nghịch ngợm năm nào nay phổng phao thành một chàng trai thông minh, ria mép lún phún, đỡ bố được khối việc. Còn con bé, trắng bóc, nhổ giò, chân dài như người mẫu. Anh em nó học về lại chúi đầu vào “anh tẹc nét”. Cái ấy hay, nghe nói nó như quyển sách, trong ấy cái gì cũng có. Lại nghe nói nó như cái thùng thư, ngồi nhà có thể thư đi khắp thế giới..

Một hôm, đang ăn cơm, thằng bé bỗng nghiêm trọng tuyên bố một câu xanh rờn: “Bố! Con lấy vợ!”.
Tin đâu như sét đánh ngang. Vừa mừng vừa lo. “Ối giời ơi! Mày lấy ai?”. Mẹ nó rên rỉ.
Chuyện là thế này, con bé lên mạng, chát chít tận bên nước Mỹ, quen một con bé trước ở bên quận Tám, người Sài Gòn, nay là Việt kiều, nhập quốc tịch, đã thành người Mỹ. Con bé nhà mình giới thiệu ông anh, cho xem cả ảnh, chát qua chít lại, con kia mến lắm, quyết về Việt Nam cưới cho bằng được, chuyện đã mấy tháng rồi nhưng chúng nó giấu. “Tuần sau nó về, bố mẹ ra sân bay đón nó. Ảnh đây”. Bức ảnh gửi qua “anh tẹc nét”, bằng cái móng tay, nhoè nhoè, mờ mờ, nhìn không rõ mặt.

Hôm ra sân bay, vợ chồng như ngồi trên đống lửa. Không biết mặt mũi con bé thế nào?! Chân tay có thừa có thiếu cái nào không, hay chân dài chân ngắn, bước đi, một chấm, một phẩy thì bỏ mẹ. Ảnh nó gửi về đâu có chụp chân tay! Nhưng nó kia rồi, lành lặn, sáng trưng, Việt kiều có khác, Con bé nhà mình dẫn đến chào hai vợ chồng, thằng cu thì có hơi bẽn lẽn. Mới lần đầu gặp nhau mà. “Chào bố mẹ. Ba mẹ con không về được. Ở bên ấy ai cũng phải đi làm. Nghỉ thì mất việc, mất việc là mất tất. Ông cậu con bên quận Tám, ngày mai sang thưa chuyện. Bố mẹ đồng ý là chúng con tổ chức luôn. Con còn phải về Mỹ đi làm. Thời gian gấp lắm.”

Ông cậu xương xương, dáng người khắc khổ. Thùng bia mua sẵn tiếp nhà gái, loáng cái vơi nửa thùng. Yêu cầu nhà gái đưa ra cũng khá rắc rối. Nào là mâm ngũ quả, trầu cau, hương đèn đủ thứ, nhưng mang sang nhà gái thì mang đi đâu? Hoá ra chẳng cậu cháu gì. Nhà con bé trước ở gần một ngôi chùa tư nhân, “ông cậu” làm thầy cúng, nhà gần đấy. Gia đình con bé đi hết không còn ai. Về đây nó nghỉ khách sạn, hôm nay bận đi đưa quà, không đến được, nó nhờ. Như vậy ông không phải đại diện nhà gái, chỉ là hàng xóm, yêu cầu hai bàn cho cả gia đình ông và ông anh cũng có thể, xin cứ đến dự, chỉ yêu cầu là không thay mặt ai, không phát biểu gì. Mọi việc nhà trai lo tất. Nhất trí 
chưa? Rồi! cụng ly.

Mọi việc rồi cũng xong, thằng cu có giấy xanh giấy đỏ gì đấy, sang Mỹ theo vợ. Còn con bé nhà này cũng “đẹp duyên” với thằng anh họ con vợ thằng lớn. Cũng kéo nhau về bên kia.
Căn nhà mênh mông, một trệt hai lầu, vợ chồng lủi thủi ra vào. Đi đâu cũng chẳng dám ngồi lâu, chẳng lẽ để bà ấy ngày nào cũng ở nhà một mình ôm cái tivi, một con chó với... hai con mèo
Còn chúng nó ở bên kia giờ ra sao? Chẳng có lấy mụn cháu để bế! Mà... nó là thằng tây con, có ru nó cũng chả hiểu gì!
                         TP.HCM, 20 - 0 1- 006
                        N.T.H

(nguồn: TCSH số 218 - 04 - 2007)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • DẠ NGÂN

    Tờ giấy màu vàng rơm. Đã khá xa cái thời giấy hoàn toàn tái chế, thỉnh thoảng ngòi viết vấp phải một ít cặn bột cứng sảng. Thùy vẫn nhớ độ thô vàng vàng của tờ giấy, như nhớ một kỷ niệm buồn, nhớ mùi vị ngậm ngùi từ ký ức xộc ra. Tờ thư là dấu hiệu của nghèo khó nhưng nó có cái uy của sự áp đặt. Thô và vàng. Không chỉ thư mời, nó có hơi hướm giấy triệu tập hơn.
     

  • LÊ MINH KHUÊ

    Xe vừa dừng thì từ phía ghế lái phụ có tiếng đập cửa gấp gáp. Vĩnh chồm dậy, mắt nhắm mắt mở. Nhưng không. Có phải báo động máy bay đâu? Vĩnh quay sang tôi nhe răng cười và mở cửa.

  • ĐINH DUY TƯ

    Tin ông Khòa từ chức bay ra như một ổ mối cánh lúc trời mưa. Người này nói với người kia, truyền vào tai nhau lượng thông tin nóng hổi nhất. Họ đánh giá, phân tích và bình phẩm, kèm theo những kết luận theo cách nhìn nhận của mình.

  • PHẠM DŨNG

    Thay xong bộ đồ ngủ, định đi nằm thì Diễm Trinh thấy trên bàn có một tờ giấy đánh máy.

  • ĐỖ HÀN

    Bân trằn trọc mãi không ngủ được. Thế là lại mất toi con hổ mang nữa. Bữa trước vợ Bân cho rắn ăn, quên không đóng cửa chuồng. Một cặp hổ mang và một con hổ chúa bò ra ngoài. Dân làng đi xem văn công về, nhìn thấy một cặp rắn, họ kêu ầm lên. Bố con Bân phải vất vả lắm mới túm được đôi hổ mang. Con chúa chuồn đi mất.

  • LÝ THỊ MINH CHÂU

    Con đường len lỏi qua những cánh rừng nối các buôn bản vùng cao lại với nhau giống như con rắn khổng lồ trên lưng có vệt vảy trắng.

     

  • PHÙNG PHƯƠNG QUÝ

    Cuối buổi họp, “Thừa tướng” còn cho Trưởng ban Văn-Xã lên có đôi lời phát biểu. Thanh than thầm: “Thôi rồi Lượm ơi!”. Thằng lùn này nó nói dai còn hơn trâu đái.

  • NGUYÊN QUÂN

    Những giọt nước mắt lăn tròn rơi xuống giữa lòng chén ngọc. Từng giọt... từng giọt xóa nhòa dần hình bóng con thuyền. Chén vỡ tan ra từng mảnh nhỏ, hồn thoát khỏi tình yêu hóa ngọc, bay vút vào không gian mang theo điệu sáo não nùng, cõi lòng oán uất.

  • TRẦN HƯƠNG GIANG Trong sân chùa chỉ còn lại Hương và chú tiểu. Cây liễu rũ thả những nhành lá lắc lay, qua ánh nắng lấp loáng hình dáng chú tiểu đang quét sân, lâu lâu chú nhìn Hương cười đầy thiện cảm.

  • MƯỜNG MÁN Những ngọn đèn mầu ẩn dưới tán lá phả xuống mặt đất thứ ánh sáng vàng nhạt, xanh dịu, tím loãng tạo khung cảnh huyền hoặc giả. Những chiếc bàn vuông thấp kê rải rác dưới các vòm cây.

  • HOÀNG TÙNG Ăn của rừng rưng rưng nước mắt                                 (Tục ngữ)

  • TRẦN CHẤN UY Đơn vị đặc công chúng tôi nhận mật lệnh thọc sâu hậu cứ địch chuẩn bị địa bàn cho chiến dịch Mậu Thân. Nói đơn vị cho có vẻ sang, nhưng thực ra chúng tôi chỉ có mười hai người kể cả một đồng chí du kích dẫn đường.

  • PHẠM PHƯƠNG Y cao lớn và nhàu nát. Điều đó làm cho con người y trở nên bí ẩn khác thường. Ở y, người ta thấy rõ đường nét của một người Âu với sống mũi cao và đôi mắt sâu hoắm như một vết thương. Nhưng, cũng trong vết thương sâu hoắm ấy, rõ ràng hiển hiện một sự mênh mang đến kì cục. Trong đôi mắt ấy... có biển cả. Và, đen sì - một màu đen Hoa Bắc chính gốc không lẫn đi đâu được.

  • HỒNG NHU BỮA TIỆC ĐÔI TÌNH NHÂN

  • NGUYỄN THÀNH LONG - Kính lạy Cha. Cha cho gọi con. Cha thấy trong người thế nào ạ? - Cha cảm ơn con đã tới. Có lẽ con là người cuối cùng Cha trò chuyện ở trên đời. Sắp sửa ra đi. Cha thấy Cha cô độc lắm.

  • NGUYỄN ĐẠT Nhớ Đoàn Đại Oanh   Có thể chiều tối đã xuống lúc tôi say, ngủ gục ở bàn rượu. Không phải mình tôi, mà chúng tôi; cả thảy bốn người, tính gồm chủ gia trong đó, anh ấy tên Giang.

  • UÔNG TRIỀU   Khi còn bé, đã có lần Điểm Bích được mọi người kể cho nghe câu chuyện về mẹ mình. Mẹ Điểm Bích là nàng Ba, một thôn nữ xinh đẹp, bạc phận.

  • HẠO NGUYÊN 1. Trong căn phòng chạng vạng và thoảng mùi khói thuốc, hai người đàn ông trầm ngâm.

  • TRẦN THÙY MAITối thứ bảy cuối tuần, Phương tuyên bố:- Tuần sau anh bắt đầu viết tập hai bộ tiểu thuyết của anh Nhớ đừng huy động vào việc gì hết đấy nhé...

  • LÊ MINH KHUÊ Tường lên chuyến xe rời khu cải tạo phạm nhân sau cùng. Đành phải ngồi cạnh một người đàn bà. Tường nhận ra bà khi ngồi sau bàn nói chuyện với bố.