HÀN NHÃ LẠC
Thêm một giọng ca tài danh từng tôn cao giá trị di sản ca Huế vừa ra đi: nghệ sĩ nhân dân Minh Mẫn vừa qua đời ngày 13 tháng ba năm 2018, nhằm ngày 26 tháng giêng âm lịch.
Cô Minh Mẫn trên chiếu hát ca Huế. Ảnh: Võ Quê
Sự nhiệt huyết của con người ấy là tấm gương điển hình về đam mê nghệ thuật và sự truyền cảm hứng cho thế hệ sau. Tài năng thiên phú, niềm đam mê tận cùng, sự khổ luyện để thỏa lòng khao khát được ca hát… tất cả đã tạo nên một giọng ca Minh Mẫn vang lừng giữa kinh thành Huế suốt hơn nửa thế kỷ.
Người sành nhạc, đến Huế muốn nghe ca Huế thì phải nghe cô Minh Mẫn, cô Thanh Tâm ca mới thỏa lòng. Bởi, chỉ cần nghe cô Minh Mẫn xô hò mái nhì song chuyển vào đoạn đầu bài thôi, đã thấm thía tận hồn. Nỗi niềm người xưa như theo cả lời ca mà xoáy vào tâm can người thưởng thức: “Chiều chiều trước bến Văn Lâu/ Ai ngồi ai câu ai sầu ai thảm”… Cô Minh Mẫn nói: “Ngày xưa phải học đến bốn tháng mới ra được một câu hò mái nhì đó”.
Với cô Minh Mẫn, ca Huế hay đến nhức nhối, ám ảnh, như là một phần của máu huyết chảy trong người. Năm lên mười ở làng quê Phong Điền, cô bé Nguyễn Thị Mẫn trong một lần đi xem tuồng của đoàn Kim Sanh (gánh hát của ông Hường Khanh - cậu vua Bảo Đại), đã bị các lời ca quyến rũ hoàn toàn, thôi thúc cô xin cha được tìm thầy để học. Ngặt một nỗi, niềm đam mê của cô bé Mẫn vấp phải sự cấm đoán quyết liệt ngay từ đầu của người cha, bởi ông cũng như bao người thuở đó quan niệm nghề ca chỉ là “xướng ca vô loài”, ông muốn cô theo nghề buôn bán thì hơn.
Không nản, lòng đam mê khiến cô bé Mẫn lén tầm sư học hát. Được một thời gian thì thân phụ biết, ông nổi giận đòn roi rồi cấm gắt. Mặc, cô bé Mẫn vẫn gan góc lủi ra khỏi nhà theo tiếng gọi ca Huế, những trận đòn roi ngày một nhiều hơn. Việc đến tai thầy hiệu trưởng Ưng Thiều, thầy đích thân đến nhà xin người cha cho cô bé Mẫn đi học hát, đến mức ấy mà người cha vẫn lắc đầu và quản thúc chặt hơn nữa.
Nước mắt lưng tròng, song ý đã quyết, lửa đam mê hừng hực, cô bé Mẫn vẫn tìm cách đi học ca. Thương em, người chị gái tìm cách giấu giếm cha, thu xếp cho em đi học. Người thầy đầu tiên của cô là cụ Võ Thuyền dạy ca Cổ Bản, Lưu Thủy, Kim Tiền, Xuân Phong, Long Hồ… Tiếp đó, cô đau đáu được học cụ Cửu Song ở làng An Gia bên cạnh. Cụ Cửu Song là một nghệ nhân cung đình, được phong quan cửu phẩm, khi về già cụ về làng sống một mình. Mỗi sáng, hầu nước cho cha xong, cô đi bộ sang nhà cụ Cửu Song làm tất cả các việc nhà, lại hầu nước cụ. Sau đó cụ Cửu Song mới dạy cho. Thương cô học trò có giọng ca thiên phú, lại ngặt nỗi cha cấm đoán, cụ Cửu Song tận tình bày vẽ, dạy từng cách nhả chữ sao cho tròn, luyến láy sao cho câu hát vừa diễn cảm vừa sang… Học chừng hơn một giờ, cô phải quay lại nhà tránh bị cha phát hiện. Cứ thế, sự học của cô bé Mẫn ngày càng tiến triển mà người cha vẫn không hề hay biết. Về sau, cô còn học thêm cụ Thông Định, một nghệ nhân đàn nhị.
Rồi niềm đam mê của cô Mẫn cũng được đền đáp, cô được giới thiệu và gánh hát Kim Sanh - gánh hát đã thôi thúc niềm đam mê của cô - mời cô gia nhập. Kỷ niệm đầu tiên trong đời nghệ thuật của cô là trong một đêm diễn ở phủ quan, các “mệ” thưởng cho cô đến 5 đồng bạc con công (dân gian có câu: một con công mua một đôi bông vàng). Số tiền đó đã bắt đầu xác quyết tài năng nghệ thuật của cô Nguyễn Thị Mẫn.
Rời quê Phong Điền, cô Mẫn dọn nhà về ở Lục Bộ ở kinh thành Huế. Cô được nghệ sĩ Tuyết Hương, cô Thu Nương, các ca sĩ nổi danh nhất bấy giờ, chuốt thêm một số kỹ thuật ca Nam Ai, Nam Bình, Tứ đại cảnh… Rồi cô may mắn được học thêm từ thầy Ngũ Chuột, cô Nhơn (Nguyễn Thị Mùi) - người từng dành giải nhất cuộc thi ca Huế tại Hội chợ Huế năm 1937… khiến giọng ca của cô ngày càng chín. Nghệ danh Minh Mẫn đến đây đã định hình tài năng xuất sắc.
Trong thời gian hát trong gánh hát của Hường Khanh, cô Minh Mẫn nhiều lần vào ca ở các cung phủ, trong đó có cả phủ Ưng Bình Thúc Giạ Thị… Hồi đó bạn diễn của cô chính là danh cầm Nguyễn Kế. Tiếng đàn Nguyễn Kế tài hoa trên nhiều nhạc cụ khác nhau: đàn bầu, tỳ, nguyệt… đưa đẩy, nâng giọng ca thiên phú Minh Mẫn khiến người nghe ngây ngất suốt đêm dài…
Thời gian đầu hoạt động nghệ thuật ở Huế, để giấu cha không biết mình đi ca, cô Minh Mẫn vẫn theo sát các chuyến hàng buôn của gia đình. Rồi danh tiếng khiến cô không giấu được cha, ông vẫn âm thầm theo dõi những thành công của cô con gái bướng bỉnh. Trong những ngày nằm viện do tuổi già, người cha đã khiến cô Minh Mẫn khóc vì sung sướng khi lần đầu tiên mở lời khen: “Giọng mi ca cũng hay đó chơ hè”. Cũng từ đó, cô Minh Mẫn chính thức công khai kiêu hãnh bước vào làng nghệ thuật, không cần phải lén lút với gia đình.
Giọng ca Minh Mẫn nhanh chóng nổi tiếng khắp xứ Huế, hay đến mức các vương phủ đều mời cô đến hát. Nhạc sĩ Phạm Duy về Huế luôn nhắc đến cô Minh Mẫn. Trước năm 1945, lần đầu đến Huế, nhạc sĩ Phạm Duy đã được nghe cô Bích Liễu, cô Minh Mẫn ca Huế trên sông Hương. Phạm Duy đã phát hiện ra ca nhạc Huế thuộc Ngũ cung lơ lớ qua giọng ca các cô, và về sau, cái chất ngũ cung lơ lớ ấy đã bàng bạc trong nhiều ca khúc về miền Trung của Phạm Duy. Sau năm 1975, cụ được mời đi dạy ở Trường cao đẳng Nghệ thuật Huế. Dạo đó, khi các cụ Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp đến thăm Huế, đều nghe cô Minh Mẫn ca Huế, rất lấy làm xúc động. Dịch giả Bửu Ý, người từng cùng với vợ thực hiện nhiều dự án bảo tồn ca Huế, nói rằng giọng ca Minh Mẫn là có một không hai, nghe đến “nhức xương”.
Cô Minh Mẫn thủ đắc trong mình điệu “Ngũ đối thượng” mà theo nhiều người sành ca Huế, chưa tìm ra ở Huế người thứ hai hát được như cô. Theo nghệ nhân Trần Thảo, có một làn điệu bây giờ cũng không ai ca được, đó là điệu Long Ngâm lời rất cổ.
Cô Minh Mẫn đã góp công rất lớn trong việc bảo tồn, gìn giữ môn nghệ thuật ca Huế. Không chỉ tham gia đào tạo ca Huế, cô còn giúp giới nghiên cứu, sưu tầm nhã nhạc, ca Huế ghi âm, thu băng hình, chỉnh lý ca từ, hệ thống một số bài bản ca Huế tưởng đã thất truyền, không còn lưu giữ trong dân gian. Trước khi rời cõi tạm ở tuổi 93, cô Minh Mẫn cũng đã kịp truyền các ngón nghề cho một số giọng ca trẻ ở Huế. Những ươm mầm ấy không biết rồi có dịp nở hoa hay không trong thời buổi con người ta ngày ít hướng về những giá trị của những làn điệu cổ…
Dù sao thì cô Minh Mẫn cũng đã hoàn tất sứ mệnh của mình, cống hiến và truyền thụ. Nơi xa khuất phía sương mù, cô sẽ gặp lại những người yêu kính nhất của nghệ thuật đàn ca Huế như nhạc sư Nguyễn Hữu Ba, cô Nhơn, nghệ sĩ Tôn Thất Toàn, mệ Viễn Dung, Vĩnh Phan, cụ Nguyễn Kế, cô Bích Liễu, cô Quế Trân… Một thế hệ mà nhắc đến tên, người ta hình dung ra một thời vàng son của kinh thành xứ Huế, với những lời ca, ngón đàn tuyệt đỉnh công phu…
H.N.L
(SHSDB28/03-2018)
Đớn đau lòng Minh Mẫn đã đi xa…
(Tứ đại cảnh)
Lời VÕ QUÊ
giọng ca vàng xuyên thế kỷ
thành tri bỉ, tri kỷ muôn lòng
là tri âm đồng điệu hòa nên nhịp quê hương.
sắc với tài danh Minh Mẫn lưu phương
tên tuổi đẹp chốn trường an nơi xứ mộng
từng ngân vọng bài ca gợi những niềm riêng
nỗi đam mê đàn nhạc, lòng mong mỏi của thời xanh
uớc mơ thành người ca nữ trang thanh
hồn Hương Ngự ngời xuân
ca ngân mãi âm vang trải bao nguồn cội yêu thương
lửng lơ con thuyền mộng tâm hồn vọng tới ngàn phương
vượt lên từng
lao nhọc truân chuyên
đời Minh Mẫn hồn nhiên
nên về khuya
hay bấc lụn trăng nghiêng
tiếng ca cảm hoài
với Nam bình Tứ đại cảnh Hành vân
tình Lưu thủy Nam xuân…
ánh bình minh soi sáng cả hành tinh
tiếng ca nghĩa tình
bi thương xốn xang nay từ biệt
người sao vội ngưng nửa câu ca
xót xa trong tim, mắt nhòa
chan chứa lệ, lơi đàn cung xưa
đớn đau lòng Minh Mẫn đã đi xa…
Huế, 14/3/2018
(SHSDB28/03-2018)
TRẦN THỊ KIÊN TRINH
Mùa hè năm nay tôi có dịp trở lại Sài Gòn. Thành phố với bao đổi thay nhưng tôi chưa kịp nhận thấy hết bởi thời gian tôi lưu lại Sài Gòn quá ngắn ngủi.
HOÀNG HƯƠNG TRANG
Cũng lạ cho cái xứ Huế của tôi, cái chi cũng khác hơn thiên hạ. Nắng thì nắng cháy da phỏng trán, mưa thì mưa thúi đất thúi đai, dầm dề không dứt. Vài ba năm lại một trận lụt, trận bão to đùng.
BÙI KIM CHI
“Tháng 7 nước nhảy lên bờ”. Mà lên bờ thiệt. Mưa. Mưa. Mưa… kéo dài lê thê. Lúc đầu nhỏ sau lớn dần. Nặng hạt. Xối xả. Cây cối trong vườn ngả nghiêng theo mưa và gió. Cây Lựu trước sân nhà tôi tơi tả. Trời tối dần. Mưa càng lúc càng to. Ào ào như thác đổ. Mưa suốt đêm. Sấm đất cuốn vào mưa. Ầm ầm. Ào ào. Âm thanh rộn rã…
Khi những giọt mưa ngâu tháng bảy bất ngờ trở về, làm xao động cả bầu trời mệt mỏi đang chìm lặng trong lòng sông Hương, Huế bỗng rùng mình chợt tỉnh cơn mê mùa hạ. Đó cũng là thời khắc mùa Vu lan đang về trên đất trời cố đô.
Hồi còn học ở Trường Đại học Sư phạm Huế, tôi có hai người bạn, hợp thành một nhóm, thường uống rượu với nhau khi vui cũng như khi buồn.
LTS: Tác giả của câu chuyện dưới đây, sinh ra và lớn lên ở làng quê Triều Sơn Nam, xã Hương Vinh, Hương Trà, Thừa Thiên Huế. Anh sinh ra trong sự oan nghiệt khủng khiếp của cuộc sống khi buổi sáng mẹ anh quằn quại nghe tin đau xé mất chồng, buổi chiều mẹ đón nhận tiếng khóc chào đời của anh.
NGUYỄN LỆ BA
Gia phả họ Nguyễn Quang ghi chép, tổ tiên chúng tôi là những người đã ra đi từ đất Huế. Thuở dong buồm về phương Nam đi tìm đất mới, những lưu dân đầu tiên đến dựng làng lập ấp trên vùng sông nước quê tôi chỉ vỏn vẹn vài dòng họ với đôi ba chục con người.
BÙI KIM CHI
Đã có một lần tôi được trở về thăm Huế vào một mùa trăng. Cảnh vật thiên nhiên trời ban riêng cho Huế làm Huế duyên dáng và đẹp lạ lùng vào những đêm trăng. Trăng Huế vì thế mà có nét đẹp rất riêng, là lạ, duyên dáng, lộng lẫy và quyến rũ trong phong cảnh vừa thơ, vừa duyên và lãng mạn của trời đất Huế về đêm.
NHÂN KỶ NIỆM 50 NĂM BỒ TÁT THÍCH QUẢNG ĐỨC VỊ PHÁP THIÊU THÂN
NGUYỄN BỘI NHIÊN
Một nam sinh như tôi lại học trường nữ trung học Đồng Khánh (trường THPT Hai Bà Trưng hiện nay), có thể một số người cho đó là chuyện lạ đời. Nhưng đấy lại là sự thật 100%! Tuy tôi chỉ học ở trường Đồng Khánh một năm lớp năm bậc tiểu học (bây giờ là lớp 1) vào khoảng những năm cuối thập kỷ 40 đầu thập kỷ 50 của thế kỷ trước. Nhưng không hiểu tại sao tôi lại còn nhớ nhiều những kỷ niệm về năm học đầu đời ấy mãi tới tận bây giờ.
TRIỆU BÔN
Hồi ký
Mùa mưa năm 1968 ở mặt trận đường Chín - Khe Sanh, trung đoàn 246 chúng tôi được gọi đùa là trung đoàn hai bốn đói. Ngày ngày chúng tôi sống bằng ba nguồn chính: thịt thú rừng, rau môn thục, và đỗ xanh.
NGUYỄN MẠNH QUÝ
Có lẽ bởi một nỗi niềm đau đáu về quê hương, nơi mình được sinh ra và chắt chiu nuôi dưỡng trong từng hạt cát, từng trận mưa dầm dề thúi trời thúi đất hay nắng lửa trên cồn khô cát cháy, mà những con người ở đây sẵn mang một tấm lòng lồng lộng gió trời trải đi khắp muôn phương...
BÙI KIM CHI
Tôi đang đứng ở đây. Bến xe đò Đông Ba của thế kỷ trước. Bùi ngùi. Xúc động. Bến xe đã không còn. Thật buồn khi nơi này đã vắng bóng những chiếc xe đò dân dã, thân thương thuở ấy cùng những tà áo trắng học trò dung dị với giọng Huế trong trẻo ơi ới gọi nhau lên xe kẻo trễ giờ học.
NGUYỄN VĂN UÔNG
Tùy bút
Tuổi càng cao càng có nhiều nỗi nhớ vu vơ. Tôi đang trong tình trạng đó. Nhớ cồn cào đến xao xuyến là mỗi dịp xuân về: Nhớ Tết quê tôi. Nhớ tuổi thơ tôi và nhiều nỗi nhớ khác nữa.
HOÀNG HƯƠNG TRANG
Thuở nhỏ, tôi thường trốn ngủ trưa đi nghe hát vè. Ở Huế lúc ấy gọi là nói vè, như theo tôi phải gọi là hát vè thì đúng hơn, bởi người hát có bài có bản, có giai điệu, trầm bổng, có cả nhạc cụ.
HỒ XUÂN MÃN
(Nguyên UVTƯ Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Thừa Thiên Huế)
Năm 1973, để chuẩn bị cho ký kết hiệp định Paris, Khu ủy và Quân khu Trị Thiên - Huế chủ trương tổ chức các lực lượng (bao gồm cả bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích) tổ chức đánh chiếm các căn cứ và phân chi khu địch để giành đất, nắm dân, cắm cờ giành quyền làm chủ.
TRẦN THỊ NHƯ MÂN
Tôi sinh ra trong gia đình quan lại, đã mấy đời làm quan với triều đình Huế(1). Khi tôi lớn lên thì chế độ cai trị của thực dân Pháp đã bước vào giai đoạn ổn định sau chiến tranh thế giới thứ nhất. Chiếc ngai vàng của nhà Nguyễn từ nay trở đi chắc không còn phải chịu những cơn sóng gió đáng kể chi nữa.
HUY CẬN - XUÂN DIỆU
Trích "Hồi ký song đôi"
Tháng 8 năm 1928 cậu tôi được lệnh của Sở học chính Trung kỳ đổi về Huế làm hiệu trường trường tiểu học Queignec ở phố Đông Ba.
LÊ QUANG KẾT
Bông hồng dâng mẹ
Vua Tự Đức - ông vua tại vị gặp cơn biến động trong lịch sử dân tộc, sinh thời nhà vua đã tán dương công ơn mẹ: “Nuôi ta là mẹ, dạy ta cũng là mẹ: Mẹ là Thầy vậy. Sinh ra ta là mẹ, hiểu ta cũng là mẹ: Mẹ là Trời vậy”.
TRẦN HOÀN
Hồi ký
Năm 1941 thi vào trường Quốc Học, tôi đỗ vào loại khá nhưng chưa đủ mức để được cấp học bổng toàn phần.