Nhất sinh đê thủ bái mai hoa

16:01 19/11/2008
NGUYỄN XUÂN HOÀNGNhững ngọn gió heo may cuối cùng đã tắt. Nắng buổi sáng hanh vàng ngoài bến sông. Hàng cây trên phố Huế đã chừng như thay lá, lung linh một màu lá tơ non, mỏng như hơi thở của bầy con gái trường Hai Bà Trưng đang guồng xe đạp đến trường. Mùa xuân đã về bên kia sông. Đã về những cánh én nâu đen có đôi mắt lay láy màu than đá. Đã về những đóa hoa hoàng mai, vàng rưng rức như một lời chào ngày tao ngộ...

Mùa xuân, tôi về phố Huế tìm hoa mai, tìm một chút hương hoa ngày cũ, để nhớ về những ngày tháng chưa xa. Cánh đồng hoa mai trước Phu Văn Lâu bạt ngàn một sắc vàng âu yếm. Những cội mai già đứng, ngồi im lặng như những con người từng trải, đã qua gió bụi phong trần, đã đi hết cõi đời trần ai này mà chưa một lần quay lưng lại. Một cành mai đơn lẻ mang vẻ đẹp khác với một rừng mai. Đời mình, tôi chưa từng thấy rừng mai nào đẹp như rừng mai trước Phu Văn Lâu. Có chăng là trong tiểu thuyết “Hồ Quý Ly” của nhà văn Nguyễn Xuân Khánh về một vườn mai lớn bên sông Hồng đỏ bậm phù sa. Trong cái buổi sáng của một ngày đầu xuân ấy, tôi đi như mê muội trong lòng cánh đồng mai. Dưới màu nắng xuân lụa là, những đóa mai vàng run run nở, từng chiếc cánh mỏng tanh như cánh chuồn chuồn kim vàng hực lên dưới nắng. Gió nhẹ thổi ơ hờ qua những cánh hoa, để lại một mùi hương thoang thoảng trên những lối đi mọc lưa thưa một loài cỏ dại không tên. Không gian trước Phu Văn Lâu tràn ngập sắc vàng và hương hoa. Hoa đẹp vậy làm sao mà cuồng sĩ Cao Bá Quát không yêu đến mụ mẫm, không khấu đầu bái lạy trước vẻ đẹp kỳ lạ của tạo hóa. Ít nhất cho đến khi công bố toàn bộ trước tác của Cao Bá Quát, nhiều người đã thuộc nằm lòng ba bài thơ mà ông đã viết về hoa mai, khen hoa mai đẹp vẻ đẹp của người quân tử, cái đẹp gắn liền với đạo đức Nho giáo. Gắn bó với đời sống của người lao động nghèo khổ, Cao Bá Quát không quên đến người trồng mai (tài mai), những lê khổ của hoa mai cũng là những lê khổ của đời người phải trải qua. Nếu với hoa mai là nắng quái, mưa chiều, là lửa sôi, rét lạnh căm căm, thì với đời người là phong trần dâu bể, là những thăng trầm trên con đường đời khổ nhọc, hiểm nguy. “Đê thủ” trước hoàng mai hoa, là Cao Bá Quát đã bái lạy trước cái chuẩn đạo đức của muôn đời, lấy nhân, lễ, nghĩa, trí, tín làm mực thước của hành vi con người. Vì vậy mà khi kết thúc cuộc đời kẻ sĩ một cách bi tráng, Cao Bá Quát đã đi vào cõi bất tử, và ông là một đóa hoa mai can trường, đẹp một vẻ đẹp lóng lánh. Trong cánh đồng hoa tinh anh của dân tộc, ông đứng bên cây trúc Nguyễn Trãi, cây trà mi Nguyễn Du, cây thông Nguyễn Công Trứ... cho cuộc đời này một quân tử hoa.

Nhớ cái đận chưa xin được việc làm, tôi đi làm thuê cho một chủ vườn ở Huế. Công việc hằng ngày là kéo một chiếc xe cải tiến lên vùng Thủy Xuân, đào mai mang về phố. Hoa mai Thủy Xuân đẹp có lẽ là nhất Huế. Nó là thứ mai đất đồi, đất núi, lớn rất chậm và cằn khô. Lớn lên từ sỏi đá, thiếu nguồn dinh dưỡng cần thiết, vì vậy mà cây mai gần như chỉ hấp thụ linh khí của trời đất. Thân càng gầy, hoa nở càng đẹp. Nó là cái cốt cách của tuyết, thanh khiết và đạt đến vẻ đẹp của một tinh thần vô lượng. Những ngày ấy, đôi bàn tay chai sần, mồ hôi mồ kê ướt đầm, tôi thui thủi đào hoa mai, thui thủi ngắm cái sắc vàng rười rượi đẹp như những giọt nước mắt của mùa thu ấy mà dặn mình không ngã lòng. Không có thơ để vịn thì vịn vào mai vậy. Đưa cây mai từ Thủy Xuân về phố Huế mà như đưa chính cuộc đời mình đến một chốn nào đó lạ lẫm vô cùng.

Đêm cuối năm, từ chiếc catsette của nhà ai đó thầm thỉ rớt ra ngoài đường Điện Biên Phủ lời hát “Mẹ ơi, hoa cúc hoa mai nở rồi...”. Đó là bài “Xuân này con không về”. Chưa bao giờ tôi nghe bài hát mà thấy hay như vậy, từng ca từ giản dị thấm vào gan ruột, đi đến tận từng tế bào xa xôi nào đó mà tôi chưa thấy bao giờ. Hoa mai bàng bạc trong bài hát ray rứt một nỗi lòng nhớ quê, nhớ mẹ. Sau lưng tôi, gập ghềnh leo dốc cùng với chiếc xe cải tiến, những đóa hoa mai lặng lẽ nở vàng rực trong đêm tối...
Nắm chặt đôi càng xe, tôi đi phăng phăng như một người mộng du về cuối con đường.

Năm mươi sáu năm xa nước, Tiến sĩ Võ Quang Yến vẫn không nguôi lòng nhớ hoa mai. Ngày tết Việt, ở Xô Thành nước Pháp, ông mang về một cây forsythia hoa có màu vàng như hoa mai nhưng chỉ có bốn cánh. Và ông xem như đang ở quê nhà với cây hoa mai vàng của Huế. Đó là một cách để nhớ mảnh đất Ưu Điềm xa lơ xa lắc hơn nửa vòng trái đất với bờ chè tàu, những rặng tre đổí tơi bời lá, và một cánh đồng rộng thung thinh ngan ngát mùi hương ngày lúa trổ bông. Hôm cùng ông về Ưu Điềm, chúng tôi nói rất nhiều chuyện. Tự lúc nào, câu chuyện chuyển sang đề tài hoa mai. Ông nói say sưa về cây forsythia. Với vốn liếng của một nhà khoa học, ông thừa biết forsythia không phải là hoa mai. Nhưng còn cách nào khác hơn khi người ta nhớ quê, nhớ quay nhớ quắt cái sắc vàng óng ả dưới nắng mùa xuân. Vui chuyện tôi nói với ông về những khác biệt của cây mai xứ đồng và cây mai đất núi. Đọc cho ông nghe bài thơ “Tài mai” của Cao Bá Quát. Tiến sĩ Võ Quang Yến ngỏ ý muốn đi thăm một người bạn chưa từng gặp mặt, nổi tiếng trồng hoa mai trên đá là anh Lê Trường Quỳnh. Anh Quỳnh nhà ở làng Lựu Bảo, Hương Hồ, trên chợ Thông một chút. Sống ẩn dật, gầy gò như Văn Cao, anh là một pho tự điển sống của văn hóa Huế. Nghe anh nói chuyện thì không cần phải đọc sách nữa. Nhiều điều không biết về Huế, tôi thường hay mang lên hỏi anh. Cuộc gặp gỡ, mà nói chính xác hơn là tương phùng giữa hai người bạn, có lẽ là rất thú vị. Và lần đầu tiên, ở tuổi 77, Tiến sĩ Võ Quang Yến đã mục sở thị những cây hoa mai mà anh Lê Trường Quỳnh đã chăm chút trồng nó trên đá. Hai mươi tuổi, những cây hoa mai chỉ to bằng ngón tay út người lớn, ngày tết chỉ ra vài ba nụ hoa. Tôi chưa từng thấy loài hoa nào đẹp một cách mỏng manh như vậy. Bám vào đá như prométe bị xiềng, như Tôn Ngộ Không nằm dưới năm ngọn núi, mà xuân về vẫn ra hoa đúng hẹn. Hèn nào, Cao Bá Quát phải “đê thủ” là vậy. Vượt qua cảnh ngộ, qua ba đào, qua những vui buồn thế tục, mà vẫn thanh khiết, không gợn một chút bụi trần. Có từng trải, có qua bao vui buồn mới cảm hoài hết cái đẹp của hoa mai. Nếu Cao Bá Quát nhìn thấy những đóa hoa mai mộng mị nở trên đá, chắc là ông lại phải “đê thủ” thêm một lần nữa bằng cái bình sinh đầy hạo khí của mình. Hai con người có tuổi gặp nhau. Ngoài hiên, nắng chiều đã vãn. Cây Giáng Châu bằng tuổi chủ vườn choàng chiếc bóng lớn che rợp một khoảng trời xanh. Trên thân thể của nó đầy những vết sẹo của một thời tao loạn.

Một ngày xuân năm nào, tôi về Vỹ Dạ viếng chùa Ba la mật. Đại đức Thích Thường Chiếu trụ trì chùa là một người còn rất trẻ, Ngài thua tôi độ vài ba tuổi. Giới thiệu lai lịch của ngôi chùa, Đại đức lưu ý tôi về những cây mai già tuổi bằng tuổi chùa. Đây có lẽ là những cội mai già nhất ở Huế. Ngày tết, cả chùa rất vất vả vì kẻ gian tế vẫn thường đột nhập vào chùa cắt trộm mai. Có lẽ khi nhà thơ Thanh Tịnh được người cha gửi vào chùa. Ba la mật học chữ Nho thì những cây mai trước sân chùa đã cao lớn lắm rồi. Tôi nói với Đại đức Thích Thường Chiếu về điều này, ông cười rất hồn nhiên và bảo mình có biết nhà thơ Thanh Tịnh đã mất mười bảy năm, nhưng những cây mai chùa thì vẫn hãy còn. Mùa xuân hoa nở kín cả cành, khi có ngọn gió đi qua, cánh hoa rụng vàng cả một vùng dưới chân cây. Cứ như là những cành mai đã tự đổ chiếc bóng hoa của chính mình xuống màu đất phù sa nâu mịn, và để lại những dấu hài son đi về phía sương mù. Chùa nào ở Huế cũng trồng nhiều mai. Ngày cuối năm, dọc Phu Văn Lâu có những chú tiểu áo lam, tóc trái đào, đi bán mai chùa. Đây có lẽ là những nhánh mai được nhà chùa tỉa bớt cho cây mai có thế đẹp hơn. Liễu Thượng Văn là người rất hiểu hoa mai, anh cho tôi biết những thế mai chưa từng được ghi trong sách vở. Và anh cũng là một người yêu mai đắm đuối.

Chơi mai ngày Tết cũng là để biết những phúc họa khôn lường. Cái đẹp của thế tục ấy phải hiểu biết mới chơi và dám chơi, bởi những quan niệm vẫn thường trói buộc con người. Riêng tôi vẫn tự cười mình là kẻ “vô sư vô sách”, cảm thấy hoa đẹp thì lòng yêu mà không câu nệ thế thần. Vả lại, đã mệnh là quân tử hoa thì sá gì định mệnh, cứ sống theo thời và vận thì được hay mất cũng thường tình...
Buổi sáng. Đứng ở đàn Nam Giao đã thấy nắng xuân hừng lên từ phía biển. Hoa mai Thủy Xuân đang lục tục kéo nhau về phố Huế, mang niềm vui hoa đến cho con người. Có lẽ những lữ thứ cuối cùng cũng đã về dưới mái hiên nhà đón xuân cùng với gia đình. Bất chợt tôi nhớ Tiến sĩ Võ Quang Yến, chắc giờ này ở xứ Xô Thành, nửa bên kia trái đất, ông đã mang về đến ngôi nhà nhỏ của mình chưa một cây forsythia hoa vàng. Xứ Xô Thành tráng lệ ấy làm sao có được hoa mai, làm sao có được nồi bánh tét nấu bằng gộc tre, mùi hương lửa bay ấm cả gian nhà, và ngoài kia là bóng tối quê hương.
                                     N.X.H

(nguồn: TCSH số 203-204 – 01&02 - 2006)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • MINH CHUYÊN (Tiếp theo và hết)

  • LÊ HUỲNH LÂMCó thể gọi xứ Huế là thành phố của những tiếng chuông. Sự khởi đầu của một ngày, một ngày mai hun hút trong tương lai cũng như một ngày tận trong nghìn trùng quá khứ. Một ngày mà âm thanh từ đại hồng chung phát ra; vang, ngân, vọng và im bặt. Người ta gọi âm thanh đó là tiếng chuông. Vậy thì, im bặt cũng là một phần của tiếng chuông.

  • MINH CHUYÊNCảnh làng mới Trà Tân cuối chiều mùa đông. Con suối chảy qua nước trong veo, róc rách. Phía tây con suối cách làng chừng nửa tầm mắt là rừng Sắc Rông, đủ các loại cây tầng tầng, lớp lớp. Cánh rừng đang chìm trong sương chiều. Rừng hoang vắng, huyền bí. Người ta kể sau ngày chiến tranh chấm dứt, rừng Sắc Rông càng trở nên bí ẩn. Người chỉ có vào mà không có trở ra. Vậy mà mấy tháng gần đây lại thường xuyên xuất hiện một người đàn bà ở đó.

  • PHẠM NGUYÊN TƯỜNGNgày xưa nhà mẹ nghèo hung, cơm không có ăn, khố không có mặc, suốt ngày lang thang trong rừng đào củ mài củ sắn kiếm cái cho vào bụng. Có ngày không tìm được chi, bụng đói lắc lư.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊTrước ngày Huế khởi nghĩa 23/8/1945, có một sự kiện khiến cả thành phố náo nức vui mừng: đó là việc lá cờ đỏ sao vàng được kéo lên đỉnh cột cờ Huế ngày 21/8 thay cho cờ quẻ ly. Người chiến sĩ được đồng chí Trần Hữu Dực trực tiếp giao nhiệm vụ quan trọng ấy là chàng thanh niên 25 tuổi Đặng Văn Việt (ĐVV).

  • NGUYỄN QUANG HÀTạp chí văn nghệ của 6 tỉnh Bắc miền Trung gồm: Xứ Thanh, Sông Lam, Hồng Lĩnh, Nhật Lệ, Cửa Việt, Sông Hương có một cam kết thú vị, luôn luôn trong nỗi chờ mong là mỗi năm anh chị em trong tạp chí thay nhau đăng cai luân phiên, mỗi năm gặp nhau một lần, ở thời điểm thích hợp nhất do tạp chí đăng cai tự chọn.

  • NGUYỄN THỊ ANH ĐÀOTháng bảy, nồng nàn hương lúa mới trên những ruộng lúc mới vừa mùa gặt tháng 5, mùi rơm rạ kéo tôi ra khỏi thế giới của những đường phố xênh xang, đầy bụi và chật người. Tôi leo lên một tầng gác và nhìn về hướng quê tôi, hình dung đủ thứ nhưng nhớ vẫn là khói lam chiều với dáng mẹ tôi gầy cong như đòn gánh.

  • VĨNH NGUYÊNPhải nói tôi có ý định dông một chuyến xe máy ra Bắc đã lâu mà chưa có dịp. Nay có điều kiện để đi song tôi vẫn băn khoăn, không hiểu chuyến đi này mình sẽ gặp những ai đây? Hay là phải thở dài dọc đường xa với những cảnh đời khốn khó? Thôi thì tôi chỉ biết đi và đi.

  • VÕ MẠNH LẬP                Ghi chépNhân vật Mười Hương nhiều người đã biết đến qua sách báo và đặc biệt là vùng đất Nam Bộ - Sài Gòn.

  • DƯƠNG THÀNH VŨTrong đêm mỏng yên tĩnh dịu dàng, một mình một cõi với ly rượu trắng, cùng mùi hương của hoa rộn ràng, huy hoàng phát tiết; tôi miên man nhớ tới cõi người đến- cõi người đi nơi xa chốn gần, thời gian tuyến tính lẫn thời gian phi tuyến tính.

  • NHẬT HOA KHANH Mười năm những mấy ngàn ngày... (Tố Hữu: Mười năm )

  • TRUNG SƠNĐoàn văn nghệ sĩ Thừa Thiên - Huế (TTH) lên đường “đi thực tế” một số tỉnh phía Bắc vào lúc lễ giỗ Tổ ở đền Hùng (10 tháng 3 âm lịch) vừa kết thúc. Tiền có hạn, thời gian có hạn chưa biết sẽ tới được những đâu, nhưng ai cũng “nhất trí” là phải lên Phú Thọ thăm Đền Hùng, dù lễ hội đã qua.

  • ALẾCHXĂNG GRINTại Luân Đôn, mùa xuân năm 1921, có hai ngài trung niên ăn mặc sang trọng dừng chân ở góc đường, nơi phố Pakađilli giao nhau với một ngõ nhỏ. Họ vừa ở một tiệm ăn đắt tiền đi ra. Ở đó, họ đã ăn tối, uống rượu vang và cùng đám nghệ sỹ của nhà hát Đriuđilenxky đùa cợt.

  • PHONG LÊQuê tôi là một xã nghèo ven chân núi Mồng Gà, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh. Từ Hà Nội, việc về thăm quê, đối với tôi không mấy khó khăn. Hồi là sinh viên thì mỗi năm hai lần, lần nghỉ hè lần nghỉ Tết. Khi đã là cán bộ, có gia đình thì mỗi năm một lần, cả nhà dắt díu về, với hai hành trình là tàu hoả từ Hà Nội vào Vinh, rồi là xe đạp từ Vinh về nhà.

  • NGUYỄN TRỌNG HUẤNBạn tôi là nhà thơ. Thơ ông hay, nổi tiếng, nhiều người ái mộ. Thời buổi “nhuận bút không đùa với khách thơ”, kinh tế khó khăn, gia đình ông vẻ như cũng “rất ư  hoàn cảnh”.

  • ĐẶNG NHẬT MINHGia đình tôi ở Huế có một cái lệ: cứ vào dịp trước Tết tất cả nhà cùng nhau lên núi Ngự Bình quét dọn, làm sạch cỏ trên những nấm mộ của nhũng người thân đã khuất. Sau đó trở về nhà thờ của dòng họ, cùng nhau ăn một bữa cơm chay. Cái lệ đó người Huế gọi là Chạp. Ngày Chạp hàng năm không cố định, có thể xê dịch nhưng nhất thiết phải trước Tết và con cháu trong gia đình dù đi đâu ở đâu cũng phải về để Chạp mộ.

  • DƯƠNG PHƯỚC THUMùa xuân năm Đinh Mùi, 1307, tức là chỉ sau có mấy tháng kể từ ngày Công chúa Huyền Trân xuất giá qua xứ Chàm làm dâu, thì những cư dân Đại Việt đầu tiên gồm cả quan binh gia quyến của họ, đã rời khỏi vùng châu thổ sông Hồng, sông Mã theo chân Hành khiển Đoàn Nhữ Hài, vượt qua ngàn dặm rừng rậm, núi cao, biển rộng đến đây cắm cây nêu trấn yểm, xác lập chủ quyền quốc gia.

  • TÔ VĨNH HÀCon chó Giắc nhà tôi đẹp nhưng mà hư quá. Tôi hét nó nằm thì nó cứ giương mắt ra, rồi ngồi. Tôi không cho nó chạy vào nhà vì sợ nó làm bẩn cái nền nhà vừa lau thì nó đi vòng cửa sau, khi tôi ra cửa trước. Bực nhất là ngày lễ - nói chung là những ngày có việc, bất cứ ai vào nó cũng sủa rộn ràng. Tôi thì không muốn xóm giềng để ý. Vậy mà chó có biết cho tôi đâu...

  • PHẠM NGUYÊN TƯỜNGGhi chép 1.Tôi tự đặt ra một “hạng mục” đinh cho chuyến đi thực tế sáng tác ở A Lưới lần này, và hạ quyết tâm thực hiện bằng được, đó là: phải lên được Đồi Thịt Băm!

  • LGT: Liên Thục Hương là một nhà văn Trung Quốc đương đại, tự ví mình là con mèo đêm co mình nằm trên nóc nhà, nhìn cuộc sống thành phố tấp nập đi qua đáy mắt. Liên Thục Hương còn ký bút danh Liên Gián, có số lượng bản thảo lên tới hơn hai triệu chữ. Năm 2003, “Bài bút ký đầy nước mắt” đã được post lên mạng và năm 2004 nó đã được dựng thành phim và bộ phim ngắn này làm tiền đề cho tác phẩm điện ảnh đoạt giải thưởng của Trung Quốc. Sông Hương xin giới thiệu câu chuyện này qua bản dịch của nữ nhà văn Trang Hạ.