ĐÔNG HÀ
Thường trong thời gian của cuộc đời, người ta hay dành riêng khoảng thời gian đáng trân trọng nhất, đó là những ngày đầu năm mới, để nói về muôn sự.
Ảnh: NSNA Văn Đình Huy
Buồn vui có, được mất có. Nhưng kiểu gì cũng phải dọn mình cho sự thảnh thơi một khoảng, như một cách nhìn lại những tháng ngày đã qua, về những ngày đi tới, để nghiệm chiêm quá khứ, vọng hướng tương lai. Từ đó mà đi những bước nhàn du hay tất bật. Tôi thường dành những ngày cuối năm để huân-tập- nghi-lễ riêng mình như vậy.
Và thường bắt đầu từ những buổi đi thật dịu dàng trong nắng trong mai với tâm thế thật hiền. Tôi bắt gặp Huế của một không gian thiền tâm không vùng đất nào có được. Ở đây, khi ra đường, chỉ cần bạn để tâm mình đằm sâu bên trong một chút, bạn có thể nghe được âm thanh vang vọng từ ngái xa về tiếng mõ ai đó tụng buổi kinh sớm mai, tiếng chuông ngân từ ngôi giáo đường trong sương sớm, tiếng lá tách mình ra khỏi cành rơi xuống, tiếng chênh chao chiều của chú tiểu cầm chiếc phất trần xua bụi giữa thinh không. Đừng nói Huế cổ xưa, đó là Huế của hôm nay đấy chứ, Huế sống không ồn ào phô phang, không rộn ràng náo nhiệt. Huế đang vui trong cái trầm lắng tươi tắn sinh động chân như trong suốt thuở Huyền Trân mang Huế về cho con dân Đại Việt được mở mang bờ cõi mà không cần một giọt máu đào nào phải rớt rơi.
Lạ kỳ một điều, khi tôi đi đến những thành phố lớn nhỏ trên đất nước hình chữ S thân thương này, những quán xá là các cuộc gặp rầm rộ của khách chủ ầm ào tay bắt mặt mừng đua chen, thì Huế lại không. Quán cà phê, quán nước, quán trà, cả quán nhậu hay nhà hàng Huế, tôi vẫn thường thấy những cuộc chuyện rì rầm thầm thĩ mà ở đó người hẹn người gặp đều kín đáo cuộc chuyện trò riêng tư. Họ từ tốn trong nói chào, họ chừng mực trong câu chuyện, họ giữ gìn trong cái vui riêng không ảnh hưởng đến không gian chung. Cơ hồ, ở Huế, mỗi người sống nơi đây đã tự đóng khung cho mình một khoảng không lơ lửng trước mặt hai bên mấy mét vuông của chính con người mình để đi đâu cũng mang theo tạo ra khoảng cách vô nhiễm vậy.
Từ lối sống đó, người xa người gần than Huế cũ quá, Huế chậm quá, Huế buồn chi mà buồn. Ngay cả người Huế khi đi đâu về cũng bất giác thở dài, sông Hương ơi thôi dùng dằng hãy chọn một lối nào mà chảy trôi xuôi đi. Rồi người Huế bắt đầu lật trở tìm tòi con đường thay đổi để Huế vui hơn. Để người sống ở Huế không như chén ngọc xưa giấu mình dưới đáy sông, và người đến Huế không chỉ biết thưởng thức mỗi món chầm chậm vớt lên từ dưới sông hoặc ngồi ngắm nắng đổ ơ hờ qua mái. Tôi đã thấy thành phố chuyển mình. Những hàng cây lên xanh khiến Huế trở thành một ngôi nhà vườn khổng lồ khi đi dưới tán cây long não lại tưởng mình về lại ấu thơ thuở tựa lưng bên vách nhà nghe Mạ gánh chợ đường xa. Dưới những tán cây xanh um, tôi nghe tiếng thơ người xưa mà ngỡ bậc đồ nho tri túc đang ngồi nheo mắt cười dưới mái hiên nhà ông cố giễu cợt kẻ ấu nhi vụng về. Tiếng thơ thảnh thơi rằng: “Một mai, một cuốc, một cần câu/ Thơ thẩn dầu ai vui thú nào”. Nếu nói Huế là thành phố vườn, thì hình ảnh trong câu thơ trên hiện lên thật thú vị. Ơ kìa, ông Trạng Trình lừng danh muôn thuở với tri thức uyên thâm tài trí hơn hơn, mà sao câu thơ để đời lại giản dị đến nhường kia. Những vật dụng nhà nông, bàn tay chai sần nào cũng cầm lên được. Nhưng tôi đồ rằng, không một nông phu nào soạn sửa ra đồng lại đi đếm từng vật dụng đến thế kia! Thói quen công việc hằng thường, người ta cứ thế mà vác lên vai mỗi ngày, đâu ai đếm một cái này một cái kia thế đâu. Nên câu thơ giản dị của Nguyễn Bỉnh Khiêm làm tôi chợt dừng lại ngó nghiêng. Phải chăng, nó lạ lẫm quá với ông? Phải chăng, bàn tay tài hoa quen phẩy nét chữ rồng bay phượng múa, giờ cầm những vật dụng nhà nông bỗng trở nên khác lạ, nên phải đếm, phải cẩn trọng, phải thật thẽ thàng kẻo sợ bỏ sót đi mất? Người xưa mây trắng từ lâu làm sao tôi hỏi được. Nhưng khởi tự tâm, tôi bật cười. Con người trí huệ ấy, khi trở về chân đất áo nâu đâu dễ gì không bỡ ngỡ ngác ngơ. Ở câu thơ thứ hai, “chân tướng” con người này đã dần lộ diện: “Thơ thẩn dầu ai vui thú nào”! Người nông phu với nông cụ trên tay, có ai “thơ thẩn” đâu!!! Ông Trạng Trình của chúng ta xóa ván cờ người của mình lui về ở ẩn chân quê, chọn nơi vắng vẻ náu mình, và tôi hình dung ông đang ngồi ngó nghiêng đời sống ấy bằng đôi mắt tỉ mỉ cẩn thận, rồi thật chậm mà tham gia vào đó như một kẻ du thiền trong rừng cây Tiếng Nhạc thảnh thơi. Bởi thế mà ông đã thốt lên “Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ/ Người khôn người đến chốn lao xao” đấy ư. Con người minh triết đã nhận ra khôn dại. Nơi vắng vẻ đã đành, vậy chốn lao xao có tội tình chi không? Tôi nghĩ là không. Chốn lao xao là nơi kinh kỳ đô hội, nơi gặp gỡ hiền tài, nơi xôn xao chuyện đời chuyện người chuyện tân kỳ vận hội mới mà trong đời người hẳn ai cũng muốn đến. Phường danh lợi kiếm cơm nhưng bậc tài trí sẽ được thỏa lòng dâng hiến. Người khôn đến đó, hẳn là điều nên! Vậy tại sao con người trí huệ ấy lại bỏ đi về nơi vắng vẻ? Sao người trí huệ ấy từ chối không ở chốn đô hội để thỏa sức cống hiến cho đời? Tôi đồ rằng, chốn đô hội ấy, cái lao xao đã vượt quá ngưỡng chuẩn mực những đấng bậc. Chốn lao xao ấy đã không còn nơi cho bậc tài trí dụng thân. Và ông rời đi, bằng sự mẫn cảm của trái tim yêu đời sống và đôi mắt thông tuệ của bậc tài trí hơn người. Người vậy, ai dám nói “dại”, ngoài cách ông tự phúng dụ bản thân.
Huế là kinh đô xưa. Bao truông hồ sóng ầm vây quanh hổ gầm thét lác, bao bãi cát dài lại bãi cát dài chùn bước kẻ sĩ để cuối cùng lại thành vùng trũng hứng hết những tinh hoa khắp xứ đổ về. Huế là chốn lao xao, là nơi phồn hoa đô hội. Chẳng thế mà bao thi đàn văn xã đã từng được khởi xướng tự nơi đây. Bao vết tích của một thời vinh hoa vương giả vẫn còn đọng lại trên nét son môi thiếu phụ, trên vành khăn đội đầu tôn ông, trên cái đài đệ khoát tay của bậc phụ mẫu. Nhưng là cái lao xao của rộn rã, của các bậc thức giả, nên sâu thẳm trong đời sống hằng ngày, vẫn là cái nền nã mực thước trên dưới trước sau.
Mang cái nết thanh tao của người xưa cũ, những hôm hây hẩy nắng mùa xuân, nghe mái ngói thiết tha tiếng chim cu gù gáy có gọi đôi, tôi lại soạn sửa tâm tính mình, làm chuyến hành hương tâm hồn để kịp cùng hoa lá mùa xuân.
Đ.H
(TCSH384/02-2021)
JEAN-CLAUDE GUILLEBAUDLà một nhà báo - nhà văn Pháp thuộc “thế hệ Việt Nam”, thế hệ những người Pháp mà dấu ấn của cuộc chiến Đông Dương đã và sẽ in đậm trong suốt cuộc đời. Ông có mặt ở Việt Nam vào nhiều mốc lịch sử trước 1975, và từ đó ý định trở lại đất nước Việt Nam vẫn luôn thôi thúc ông. Cuốn “Cồn Tiên” được viết sau chuyến đi Việt Nam từ Nam chí Bắc của ông năm 1992. Bản Công-xéc-tô vĩnh biệt này, có thể nói, nó là nỗi ám ảnh của người pháp về Điện Biên Phủ ở Việt Nam. Hiện Guillebaud đang công tác tại Nhà Xuất bản Le Seuil (Paris).
PHẠM THỊ ANH NGA15-12-2002Hình như trong đám đông tôi vẫn luôn là một bóng mờ. Một bóng dáng nhạt mờ, lẩn trong vô vàn những bóng dáng nhạt mờ khác, mà giữa trăm nghìn người, ai cũng có thể “nhìn” mà không “thấy”, hoặc có vô tình “thấy” cũng chẳng bận lòng, chẳng lưu giữ chút ấn tượng sâu xa nào trong tâm trí.
PHẠM THỊ CÚC KýTôi sinh ra ở một làng quê, không những không nhỏ bé, hẻo lánh mà còn được nhiều người biết đến qua câu ca dao "Ai về cầu ngói Thanh Toàn/ Cho em về với một đoàn cho vui".
HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG Bút kýNhiều lần thức giấc trong mùi hương rạo rực của ban đêm, tôi chợt phát hiện ra rằng Huế là một thành phố được dành cho cỏ. Tôi không hề có ý xúc phạm, chỉ muốn lưu ý thêm về vai trò của cỏ trong quy hoạch đô thị. Thật vậy, không nơi nào trên thế giới mà những công trình kiến trúc của con người lại mọc lên giữa cỏ hoang như ở Huế. Đà Lạt cũng được xây dựng trên những ngọn đồi; nhưng ở đấy, hình tượng của cây anh đào và cây thông đã khiến người ta quên mất sự có mặt của cỏ dại.
THÁI VŨ Ghi chépNhững năm đầu kháng chiến chống Pháp, từ Quảng Nam- Đà Nẵng vào Bình Thuận lên Tây Nguyên được chia ra làm 3 Quân khu thuộc Uỷ ban Kháng chiến miền Nam Việt Nam, cụ Cố vấn Phạm Văn Đồng là đại diện của Trung ương Đảng và Chính phủ. Qua năm 1947, 3 Quân khu (QK 5, 6 và Tây Nguyên) hợp nhất thành Liên khu (LK) 5.
PHƯƠNG HÀ (truyện ký)Cho anh em trong phân đội trở về các vị trí giấu quân xong thì trời cũng vừa sáng. Đang giăng võng để ngủ lấy sức sau một đêm trinh sát, tôi chợt nhớ phải đến thăm Hoà vì Hoà sắp đến ngày sinh nở. Chúng tôi đang ở ngay làng của mình nhưng làng không còn nhà, dân bị giặc lùa đi hết, muốn tìm nhau thì phải tìm đến những căn hầm.
LÊ TRỌNG SÂMTrong cuộc đời của mỗi chúng ta, khi Bác Hồ còn sinh thời, được gặp Bác một lần đã quý. Trong cuộc sống của tôi, do có nhiều hoàn cảnh, nhiều duyên may lại được gặp Bác đến ba lần thì càng quý biết bao nhiêu. Tự đáy lòng, tôi thầm cảm ơn Đảng, cảm ơn Bác đã cho tôi ba lần vinh dự như vậy. Và những kỷ niệm đó vẫn còn tươi nguyên.
PHẠM THỊ CÚC Ký…Tôi chưa thấy ai hay ở xứ nào làm các tác phẩm mỹ thuật từ cây với dây... Nếu gọi là tranh thì là một loại tranh ngoài trời, lấy tạo hoá, thiên nhiên làm cốt, không giới hạn, dãi nắng, dầm mưa, đu đưa theo chiều gió, màu sắc cũng thay đổi từng giờ, từng phút, tuỳ theo ánh sáng mặt trời hay mặt trăng. Cho nên, tác phẩm rất linh động…
LÊ VĨNH THÁI Ghi chép Sau chặng đường dài gần 20 km vượt qua các con dốc cao ngoằn ngoèo, hiểm trở, tôi đã đến “hành lang” công trình hồ Tả Trạch, nằm giữa vùng rừng núi bạt ngàn thuộc xã Dương Hoà, huyện Hương Thuỷ. Công trình hồ Tả Trạch được khởi công xây dựng ngày 26/11/2005, là công trình trọng điểm của Thừa Thiên Huế và của cả nước, được Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn quản lý đầu tư từ nguồn vốn trái phiếu của Chính phủ, với tổng mức đầu tư khổng lồ 2659 tỷ đồng. Đây là một trong những công trình lớn của vùng Đông Nam Á.
TRƯƠNG ĐÌNH MINH Ký Đợt này trở lại Trường Sơn, tìm hiểu thêm các tấm bê tông xi măng vắt qua đỉnh Trường Sơn, lượn quanh các đèo U Bò, Cù Đăng, A Dớt - A Tép mưa mù phủ trắng... Có đỉnh như đỉnh Sa Mù cao trên 1400m mà đợt tháng 3/2003 vừa rồi chúng tôi đã có mặt. Song do mưa liên miên, xe vận chuyển vật liệu, vật tư đi lại co kéo quá nhiều, đường lầy lội. Các đơn vị thi công chưa hoàn thiện phần nền...
DƯƠNG PHƯỚC THU Bút kýNhiều năm rồi tôi vẫn nghe, đồng chí đồng đội, nhân dân Dương Hoà và những người từng ở hoặc đã qua lại nơi đây trước chiến tranh, khẳng định rằng: Sau khi hy sinh, thi hài liệt sĩ Ngô Hà được đơn vị tổ chức an táng tại sườn tây núi Kệ, nơi có khe suối Ngân Hàng chảy qua thuộc vùng chiến khu Dương Hoà. Trước ngày giải phóng miền Nam, mỗi lần ngang qua chỗ ông nằm mọi người lại tự ý đắp thêm một viên đá nhỏ, để cho ngôi mộ ấy sớm trở thành hòn núi như mới mọc lên từ đất, ghi dấu chỗ ông yên nghỉ ... Chờ ngày chiến thắng.
ĐỖ KIM CUÔNGNăm cuối cùng của bậc học phổ thông, tôi được học 2 tiết văn giới thiệu về "Dòng văn học lãng mạn Việt Nam 1930 - 1945". Cũng không có tác phẩm thơ hoặc văn xuôi được tuyển chọn để phân tích, bình giảng như bây giờ. Ngày ấy - những năm chống Mỹ cứu nước, thơ văn lãng mạn được xem là điều cấm kỵ.
TRƯỜNG ANChúng ta đang sống giữa những ngày rực lửa truyền thống hào hùng của Tháng Năm trong lịch sử cách mạng Việt và thế giới. Trước hết, hãy nhắc đến một sự kiện lớn của giai cấp công nhân quốc tế. Ngày 1.5.1886, do yêu cầu không được đáp ứng một cách đầy đủ, công nhân trên toàn nước Mỹ đã tham gia bãi công nhằm gây áp lực buộc giới chủ thực hiện yêu sách của mình. Đầu tiên là cuộc bãi công tại thành phố Chicago với biểu ngữ “Từ hôm nay không người thợ nào làm việc quá 8 giờ một ngày! Phải thực hiện 8 giờ làm việc, 8 giờ nghỉ ngơi, 8 giờ vui chơi!”.
PHẠM THỊ ANH NGA Gởi hương hồn bạn cũTôi qua đến Pháp ngày hôm trước thì hôm sau ba tôi mất. Cái tin khủng khiếp đó đối với tôi vẫn không đột ngột chút nào, bởi từ những ngày hè về thăm nhà, tôi đã biết trước ba tôi sẽ sớm ra đi.
TÔ VĨNH HÀEm hẹn gặp tôi ở quán cà phê Trung Nguyên. Đó là địa điểm em tự chọn. Cái tên ấy cho tôi biết rõ là giữa hai chúng tôi không có gì nhiều hơn một cuộc trao đổi bình thường. Tuy nhiên, sự mách bảo từ nơi nào đó của linh cảm và cả ước muốn, cứ làm cho tôi tin rằng đó là điểm khởi đầu. Đêm cuối xuân, Huế gần như ít buồn hơn bởi cái se lạnh của đất trời. Huế bao giờ cũng giống như một cô gái đang yêu, đẹp đến bồn chồn. Nếu được phép có một lời khuyên thì chắc hẳn tôi đã nói với tất cả những người sẽ được gần nhau rằng, họ hãy cố chờ đến một đêm như thế này để đến bên nhau. Bầu trời mà Thượng đế đã tạo ra sẽ cho mỗi con người biết cách đến gần hơn với những lứa đôi.
CAO SƠNChuyện xưa: Vua Hùng kén tìm phò mã cho công chúa Ngọc Hoa, đồ lễ vật phải có gà chín cựa ngựa chín hồng mao? Thôi thúc Lạc dân xưa kia, đánh thức tiềm năng người dân phải tìm hiểu, lặn lội từ đời này sang đời kia chưa thấy. May sao với thú đi để biết, anh Trần Đăng Lâu, cựu chiến binh, hiện Giám đốc vườn quốc gia Xuân Sơn tỉnh Phú Thọ cho hay: Vườn quốc gia nguyên sinh anh Lâu đang quản lý, mới phát hiện giống gà lạ ấy. Con vật đặc biệt chưa có ai biết tới, chưa được phổ biến rộng rãi, thương trường chưa có cuộc trao bán...
NGUYỄN HỮU THÔNG Bút ký"Buổi mai ăn một bụng cơm cho noChạy ra bến đòMua chín cái tráchBắc quách lên lò
TRẦN NGUYỄN KHÁNH PHONG Bút kýTrong hồi ức của một số cán bộ lão thành cách mạng ở A Lưới kể lại rằng: “Hồi đó có một số người ở đồng bằng tản cư lên sống cùng đồng bào; qua họ, đồng bào nghe đến tên Cụ Hồ, nhưng đồng bào chỉ biết đầy đủ về Bác cũng như thấu hiểu được những điều Bác dạy qua các cán bộ người Kinh lên hoạt động ở đây vào khoảng những năm 1945-1946. Cán bộ bảo: Cụ Hồ muốn nhân dân mình học lấy cái chữ để biết bình đẳng. Muốn bình đẳng còn phải đánh Pháp. Nếu đoàn kết đánh Pháp thì ai ai cũng đánh Pháp và khi đó đồng bào ta nhất định thắng lợi” (1)
PHAN TÂM (Kỷ niệm 240 năm sinh thi hào Nguyễn Du 1765-2005)Tháng Hai 1994:Từ Vinh qua cầu Bến Thủy, rẽ trái độ mười cây nữa, đến xã Xuân Tiên (Tiên Điền), huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.Khu đất cao ráo ở ngay đầu xã, bên bờ sông Lam, cạnh bến Giang Đình, là khu nhà cũ, khu lưu niệm Nguyễn Du.
LTS: Phát hành tới hàng trăm ngàn bản, Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm là cuốn sách duy nhất (có thể nói như vậy) gây được xúc động cho các thế hệ độc giả trong và sau chiến tranh, cho cả hai phía xâm lược và chống xâm lược nhờ tính chân thực của nó.Sông Hương trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc một số trang trong cuốn Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm và hai bài viết liên quan đến cuốn sách