Nhân 80 năm phong trào Thơ Mới (1932 - 2012)

16:57 20/09/2012

NGƯỜI ĐƯƠNG THỜI THƠ MỚI BÀN VỀ THƠ NGUYỄN ĐÌNH THƯ

NGUYỄN HỮU SƠN

Những nhà thơ tiêu biểu của phong trào Thơ Mới - Ảnh: tapchinhavan.vn

Nhà thơ Nguyễn Đình Thư sinh ngày 1/10/1917 tại làng Phước Yên (nay thuộc xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế). Nơi đây trong khoảng mười năm (1626 - 1636) dưới thời chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên (1563 - 1635) từng được chọn làm dinh thự, thủ phủ nhà Nguyễn và còn có miếu thờ danh tướng Nguyễn Hữu Dật (1603-1681). Đây cũng là miền quê của những danh nhân nổi tiếng thế kỷ XX như Nguyễn Chí Thanh (1914 - 1967), Tố Hữu (1920 - 2002)… Nguyễn Đình Thư xuất thân từ một gia đình nghèo, được bà ngoại chăm nuôi suốt thời thơ trẻ nên được đặt tên là Thư, ngụ ý rằng đời ông cũng giống danh tướng Ngụy Thư đời Tấn khôn lớn cũng nhờ bên ngoại. Một thời Nguyễn Đình Thư học trường École primaire Queignec (mang tên một vị tướng người Pháp nguyên là giáo viên và tử trận trong Đại chiến thế giới lần thứ Nhất), được mở từ niên học 1919-1920, sau vào học trường Quốc Học Huế. Khi có bằng thành chung, ông được nhận vào làm thư ký ở Sở Kho bạc Huế. Sau Cách mạng tháng Tám 1945, ông tham gia chống Pháp rồi bị bắt, bị tra tấn và hy sinh anh dũng… Đương thời phong trào Thơ mới, chắc chắn Nguyễn Đình Thư từng gửi đăng thơ ở báo Ngày Nay và có tập Hương màu (chưa xuất bản) nhưng đã được các ông Thế Lữ, Lam Giang, Hoài Thanh - Hoài Chân đánh giá cao, cùng quan tâm nhắc nhớ, luận bình…

Trong mục Tin thơ trên báo Ngày Nay (số 82, ra ngày 24/10/1937), nhà thơ, nhà phê bình Thế Lữ uy danh nổi tiếng bấy giờ đã ghi nhận sắc thái trữ tình đậm đặc trong thơ Nguyễn Đình Thư đặt trong tương quan phong cách những Xuân Diệu, Thanh Tịnh, Hàn Mặc Tử, đồng thời cũng góp ý chân tình, thẳng thắn và chỉ rõ những điểm hạn chế:

“Huế là một chốn non nước mộng, chốn non nước tình: có lẽ vì thế mà nhà làm thơ ở đấy là những người đa tình với cảnh sắc, với hương thơm, với đủ các vẻ đẹp mong manh mà tâm linh rất dễ rung động của họ thường thu được và cảm thấy. Một Xuân Diệu, một Thanh Tịnh hay một Hàn Mặc Tử (mà tôi sẽ có dịp nói đến thi phẩm trong mục này) thường yêu đến say mê, yêu đến đau khổ những cánh hoa rơi, những hương gió thoảng bay, những nhan sắc xa xôi hay thực hiện (hiện thực - NHS chú). Họ thấy sự khoái lạc (và tả ra cho ta thấy), trong hết các cảm giác vui yêu hay chua xót của họ. Nhờ có các thi sĩ này sự ủy mị điên cuồng là một sự tốt đẹp cho cuộc đời, và những giọt lệ họ nhỏ thành lời thơ là những của châu báu.

Tôi nghĩ những điều vừa rồi vì đọc một bài thơ của một bạn trong Huế, và cũng vì thơ ấy có màu Xuân Diệu, một Xuân Diệu ngượng ngập vụng về hơn.

Tình yêu nồng nàn, sự thương nhớ, chờ mong, mừng rỡ cũng thấy đầm thấm trong bài Xuân sơ và bài Ngao ngán của ông Nguyễn Đình Thư. Ông tả buổi đầu xuân, hoa mai rụng đầy đất, hương mới nồng nàn trong bầu trời quang tạnh, cành lê đã trắng điểm năm bảy hoa...

Lá già đông sót rụng đôi tờ,
Nguồn thơm đầy ứ muôn đài kín,
Lũ bướm ong vàng bay ngẩn ngơ…


Giác quan phơi phới của thi sĩ rất tinh tường trước sự nẩy nở kín đáo của hoa, cây... Ông đoán thấy:

Nhựa nồng rạo rực trong cành lá,
Như những Thèm Thuồng trong thịt xương.


Ông bắt được:

Mùi hương mát rợn như da phấn

Và biết được:

Ngàn cây cảm khái nhún lay mình

Khi:

Thỉnh thoảng trăng cao tỏa bóng xanh.

Đó là những cái “đẹp” ghi trong những lời thơ có thể đẹp hơn nếu ông chịu lựa lọc. Ông không chịu tránh những tiếng lắp lại và những ý người khác đã dùng. Trong hai câu:

Mấy bữa gió mưa đà tạnh hẳn,
Xuân chừng đã tới, nước non ơi!


Chỉ đổi hai tiếng thích đáng hơn vào hai tiếng đà, đã biếng nhác là đỡ mềm yếu đi nhiều.

Và tiếng nắng nhắc lại ở hai câu:

Ấm áp vườn sau nắng uống sương,
Chim non say nắng hót trên tường.


Nghe không đẹp tai - và vừa ý - chút nào hết.

Khơi mạch thơ sâu kín có sẵn trong tâm hồn, tránh những ý của người khác, nhất là lối cảm xúc của người khác; đó là những điều ông Nguyễn Đình Thư nên theo”...

Khi bàn về lối thơ bình thanh (thanh bằng), Lam Giang trong sách Khảo luận luật thơ mới (Huế, 1940. In lần ba có chỉnh lý với nhan đề Khảo luận luật thơ, Sơn Quang xb, Sài Gòn, 1967) đã dẫn chứng thơ Nguyễn Đình Thư (đặt trong tương quan với thơ Xuân Diệu, Huy Phương, Nghiêm Tử Hàn, Anh Huy, Thanh Hữu):

“Sao lại chỉ có tiếng bình mới được dung nạp vào thơ? Tiếng bình êm diệu chăng? Phải có màu đen, màu xanh đậm mới nổi bật được sắc trắng. Phải có bóng tối mới làm cho ánh sáng quý giá vô ngần, hai cái tương phản làm cho giá trị của nhau được phân biệt, được tăng tiến thêm. Như vậy phải có trắc nặng mới làm nổi giá trị tiếng bình nhẹ.

Trong thơ lục bát Việt Nam thường thường tiếng bình chiếm ưu thế cho điệu thơ có vẻ thanh thoát nhẹ nhàng. Ví dụ:

SANG NGANG

Lòng tôi là chiếc thuyền lan,
Tình cô là khách sang ngang một chiều.
Thu nào rất đỗi cô liêu,
Bờ hun hút lạnh nắng hiu hiu buồn.

Qua rồi thôn cách bến sương,
Phất phơ áo nhạt mất đường lau không.
Vô tình nào biết trên sông,
Có người ngang lái còn trông dõi mình.

                        (Nguyễn Đình Thư)

Toàn bài có 8 câu, cả thảy có 56 chữ mà tiếng trắc chỉ 15 chữ, tỉ số tiếng trắc chỉ một phần bốn trong toàn số âm thanh”…

Xin nói thêm, so với trích dẫn của Lam Giang, bài thơ Sang ngang rút trong tập Hương màu của Nguyễn Đình Thư được Hoài Thanh - Hoài Chân tuyển in trong Thi nhân Việt Nam (Nguyễn Đức Phiên xb, Huế, 1942) có khác biệt vài chữ và khác cả lối ngắt nhịp, ngắt dòng:

Lòng tôi như chiếc thuyền lan,
Tình cô như khách sang ngang một chiều.

Thu nào quá đỗi cô liêu,
Bờ hun hút lạnh nắng hiu hiu buồn…

Qua rồi thôn cách bến sương,
Phất phơ áo nhạt mất đường lau không.

Vô tình đâu biết trên sông,
Có người ngang lái còn trông dõi mình.


Trong phần lời dẫn Một thời đại trong thi ca ở sách Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh - Hoài Chân đã xếp Nguyễn Đình Thư vào nhóm những nhà thơ đi theo xu hướng hiện đại và xa gần có tiếp nhận ảnh hưởng nguồn thơ Pháp:

“Ảnh hưởng Pháp trong thơ Việt đến Xuân Diệu là cực điểm. Qua năm 1938, Huy Cận ra đời, nó đã bắt đầu xuống, mặc dầu Huy Cận cũng chịu ảnh hưởng thơ Pháp gần đây, nhất là ảnh hưởng Verlaine.

Chung quanh đôi bạn Xuân Diệu - Huy Cận có vô số thi sĩ bàn nhì bàn ba: Tế Hanh, Huyền Kiêu, Đinh Hùng, Phan Khắc Khoan, Thu Hồng, Nguyễn Đình Thư, Xuân Tâm, Huy Tân, Huy Chức, Phan Thanh Phước, Nguyễn Đức Chính, Tường Đông... Đôi nhà thơ như Lan Sơn (trong tập Thơ của một đời), Thanh Tịnh, lúc nãy đã thấy một bên Thế Lữ, bây giờ lại kéo nhau về đây. Và Thế Lữ ngồi một mình trong dĩ vãng chừng thấy lẻ loi cũng về đây nốt”...

Thế nhưng trong một đoạn khác, với một cách cảm nhận khác, hai nhà phê bình lại nhấn mạnh sắc thái ca dao, lục bát và chất thơ đồng quê tình tứ của Nguyễn Đình Thư trong dòng thơ Việt:

“Trái lại, trong thơ Nguyễn Nhược Pháp chịu không thể thấy dấu tích một nhà thơ xưa nào. Không biết ai đã giúp Nguyễn Nhược Pháp tìm ra nụ cười kín đáo, hiền lành và có duyên ấy. Alfred de Musset chăng? Dầu sao đây rõ ràng là một nụ cười riêng của người Việt. Thế mà lạ, trong vườn thơ nó chỉ nở ra có một lần. Sau này Nguyễn Bính đi tìm tính chất Việt Nam lại trở về ca dao. Thơ Nguyễn Bính có cái vẻ mộc mạc của những câu hát đồng quê. Nguyễn Đình Thư cũng có chịu ít nhiều ảnh hưởng ca dao, lại chỉ mượn ở ca dao cái vẻ tình tứ. Cho nên Nguyễn Đình Thư gần Kiều hơn...

… Ngoài Lưu Trọng Lư, Phan Văn Dật, Nguyễn Nhược Pháp, Nguyễn Bính, Nguyễn Đình Thư, Vũ Hoàng Chương, trong dòng Việt cơ hồ không còn ai. Hoặc cũng có thể tìm thấy ở đây: Đông Hồ, Nguyễn Xuân Huy, Thúc Tề, Nguyễn Vỹ (trong bài Gửi Trương Tửu), T.T.Kh., Hằng Phương, Mộng Huyền, Trần Huyền Trân. Nhưng không lấy gì làm rõ lắm”...

Trong phần trực diện phác thảo chân dung Nguyễn Đình Thư trong bộ sách tổng thành Thi nhân Việt Nam, 1932 - 1941 nói trên, Hoài Thanh - Hoài Chân đã trân trọng tuyển tới 5 bài thơ (Đến chiều, Sang ngang, Tống biệt, Vương tình, Thiệt thà, tất cả đều rút trong tập Hương màu chưa xuất bản), xếp ngang Thái Can và thuộc hàng chiếu trên những người có 4 bài (Tế Hanh, Đoàn Văn Cừ, Anh Thơ, J. Leiba, Đông Hồ, Vũ Hoàng Chương), từ đó đi sâu phân tích, lý giải đặc điểm chất thơ Nguyễn Đình Thư:

“Khách yêu thơ gặp được một bài thơ hay là một cái thú. Nếu bài thơ lại chưa hề in lên mặt giấy cho hàng vạn người xem thì cái thú lại gấp hai. Thơ in ra rồi hình như có mất đi một tí gì, có lẽ là một tí hương trinh tiết.

Tôi đã được nếm cái thú thanh khiết ấy trong khi xem thơ Nguyễn Đình Thư.

Đây không phải là một nguồn thơ tân kỳ. Xem xong ta có thể nghĩ đến thơ người này, người khác. Mặc dầu, lần thứ nhất tôi đọc những vần thơ ấy, nó cứ lưu luyến hoài trong tâm trí như tiếng nói một người bạn tuy mới quen mà vẫn thân yêu từ bao giờ.

Thơ Nguyễn Đình Thư không nói chuyện gì lạ: một chút tình thoảng qua, một đêm trăng lạnh, vài con bướm vẽ vành, một buổi chia ly, nỗi lòng người bị tình phụ, đi lại chỉ những buồn thương, những vui sướng rất quen. Nhưng buồn ở đây là một mối buồn âm thầm, lặng lẽ, thấm thía vô cùng, cái buồn không nước mắt, cái buồn của điệu Nam Bình trên sông Hương. Lòng thi nhân như một nguồn sầu vô hạn rưới khắp cảnh vật, bao phủ cả vầng trăng khuya:

Không biết hôm nay trăng nhớ ai
Mà buồn đưa lạnh suốt đêm dài?
Trông chừng quạnh quẽ mênh mông quá
Như trải u hoài muôn dặm khơi.


Buồn cho đến những khi đáng vui, những khi yêu và được yêu, cũng buồn. Bài thơ thành ra lời của thi nhân thì thầm một mình; người xem hình như cũng cần phải ngâm rất nhỏ. Đọc to lên nghe sỗ sàng thế nào như nghe những bài ca Huế phổ vào cái âm nhạc ầm ĩ của đôi bàn máy hát.

Nhưng thi nhân dễ buồn thì cũng dễ vui. Một chút nắng mới báo tin xuân cũng đủ khiến người vui. Cái vui của Nguyễn Đình Thư có vẻ kín đáo, nhưng không miễn cưỡng, không gượng gạo. Người vui hồn nhiên, cái vui của cây cỏ.

Về điệu thơ thì có đến bốn năm lối. Riêng trong lối lục bát thỉnh thoảng ta lại gặp những câu phảng phất giọng Kiều hay giọng ca dao lẫn với một tí phong vị mới. Chẳng hạn như những câu:

Một thương là sự đã liều
Thì theo cho đến xế chiều chứ sao!
Sa buồn mây nối đồi thông,
Khói cao nghi ngút đôi vùng giang tân.


Có khi lại xen vào một hai tiếng riêng của đàng trong nghe cũng hay:

Cách vời trước biết bèo mây
Chung đôi xưa “nỏ” sum vầy làm chi.


Nhất là chữ “thương”, một chữ đầu miệng của người Huế, thi nhân dùng đến luôn và dùng khi nào cũng có duyên (trên kia ta đã thấy một lần):

Mấy bữa trông trời bớt nhớ thương,
Chim say nắng mới hót inh vườn.
Gió xao trăng động hương cành,
Trông ra mấy dặm liễu thành thương thương.


Mở lòng đón phong trào thơ mới, điều ấy đã đành, nhưng cũng chớ quên tìm đến nguồn thơ thiên nhiên của nòi giống. Nguyễn Đình Thư đã có ý ấy. Ít nhiều hồn xưa đã ngưng lại trong thơ Nguyễn Đình Thư”.

Đúng là Nguyễn Đình Thư đã “mở lòng đón phong trào thơ mới” và người đương thời đã mở lòng đón đọc Nguyễn Đình Thư. Ngay cả khi thơ ông mới chỉ in báo và tập Hương màu chưa được xuất bản, người đời vẫn đón nhận và đánh giá cao một giọng thơ trữ tình vừa có cấu tứ hiện đại vừa giữ được hơi hướng đồng quê tình tứ. Trong tầm nhìn của người đương thời, Nguyễn Đình Thư là thi nhân vừa truyền thống vừa hiện đại, biết đón gió bốn phương mà vẫn mãi là người con của xứ Huế và hiện thân của tình quê hương xứ sở Việt Nam.

Hà Nội, tháng 7/2012
N.H.S  
(SH283/09-12)








 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGÔ MINHNhà xuất bản Văn nghệ vừa ấn hành tập ký “Phùng Quán- Ba phút sự thật”, tập hợp mười lăm bài viết, ký thấm đẫm chất nhân văn rất của cố nhà thơ nổi tiếng Phùng Quán.

  • NGUYỄN ĐÔNG HIẾUTrong cuộc đời làm xuất bản của mình, Phùng Quán là một nhà văn đã để lại cho tôi những ấn tượng mạnh mẽ, sâu sắc, khó quên.

  • PHẠM PHÚ PHONG Tập nhật ký Tây tiến viễn chinh (do Đặng Vương Hưng biên soạn và giới thiệu, Phạm Tiến Duật viết lời bạt, Nxb Hội Nhà văn, 2005) của liệt sĩ Trần Duy Chiến, bắt đầu viết từ ngày 7.10.1978, khi anh mới nhập ngũ, đến ngày 25.6.1980, trước khi anh hy sinh gần một tháng.

  • BỬU NAM giới thiệu1. Cuốn tiểu thuyết best - seller “Hồi ức của một Geisha” của nhà văn Arthur Golden vừa được dựng thành phim. Nhà văn Arthur Golden đã dành cả 40 năm cuộc đời mình tìm tư liệu về cuộc sống của những nàng Geisha ở Nhật Bản, để sáng tạo nên một cuốn tiểu thuyết Best - Seller giữ vị trí được bạn đọc thế giới yêu thích lâu dài trên danh mục những tiểu thuyết bán chạy nhất do báo New York Times bình chọn.

  • HOÀNG VŨ THUẬT(Đọc tập thơ Lệ Thuỷ mút mùa của Ngô Minh)Nói đến Ngô Minh là nói đến thế - giới - cát. Cát trong suy nghĩ của Ngô Minh như thứ ngôn ngữ minh triết về đời sống con người. Là vật chất, nhưng không giản đơn như mọi thứ vật chất. Cát có thể nóng như lửa, lại mềm mại dịu êm dưới chân người. Li ti từng hạt nhỏ, vậy mà bên nhau cát xây nên luỹ nên thành án ngữ dọc biển bờ Tổ quốc. Cát hiền lành trong sạch, khi giận giữ có thể biến thành những cơn bão khủng khiếp.

  • BÙI ĐỨC VINH(Nhân đọc tập thơ “RỖNG NGỰC” của Phan Huyền Thư, NXB Văn học 2005)

  • PHAN THUẬN AN"Khóc Bằng phi" hay "Khóc Thị Bằng" là một bài thơ nổi tiếng xưa nay, nhưng tác giả của nó là ai thì chưa được xác minh một cách cụ thể. Người ta thường cho rằng bài thơ trữ tình này là do vua Tự Đức (1848-1883) làm ra để thương tiếc một bà cung phi tên là Thị Bằng còn rất trẻ đẹp nhưng chết sớm.

  • HÀ VĂN LƯỠNGTrong văn học Nga thế kỷ XX, Aleksandr Solzhenitsyn là một trong những nhà văn lớn, nổi tiếng có nhiều đóng góp cho nền văn học Nga trên nhiều phương diện, một người suốt đời tận tụy và kiên trì đấu tranh cho sự chiến thắng của nghệ thuật, của sự thật đối với những cái xấu, cái ác. Nhưng ông cũng là một nhà văn có cuộc đời đầy thăng trầm, bất hạnh và phức tạp.

  • BÙI LINH CHIAnnemarie Selinko (1914-1986) là một nhà báo, nhà tiểu thuyết gặt hái được một số thành công trong sự nghiệp tại Tổ quốc của mình là nước Áo. Trong những tháng ngày chạy nạn 1943, bà đã cùng chồng đến Thụy Điển, đã chứng kiến những làn sóng người tị nạn phải rời bỏ quê hương trước ý chí ghê gớm của kẻ độc tài khát máu Himler gây ra.

  • TRẦN HUYỀN SÂM1. Nobel là một giải thưởng danh giá nhất, nhưng cũng chứa đựng nhiều nghịch lý nhất trong tất cả các giải thưởng. Riêng giải Nobel văn học, bao giờ cũng gây tranh cãi thú vị. Bởi vì, Hội đồng Viện Hàn Lâm Thụy Điển phải trung thành với lời di chúc của Alffred Nobel: trao tặng giải thưởng cho người sáng tạo ra tác phẩm văn học xuất sắc nhất, có khả năng định hướng lý tưởng cho nhân loại.

  • NGUYỄN THỊ MAI(Nhân đọc tập thơ “Ra ngoài ngàn năm” của nhà thơ Trương Hương - NXB Văn học – 2008)

  • LÊ HUỲNH LÂMDạo này, thỉnh thoảng tôi nhận được tin nhắn “nhìn đời hiu quạnh”, mà theo lời thầy Chạy đó là câu của anh Định Giang ở Vỹ Dạ mỗi khi ngồi nhâm nhi. Khi mắc việc thì thôi, còn rảnh rang thì tôi đến ngồi lai rai vài ly bia với thầy Chạy và nhìn cổ thành hắt hiu, hoặc nhìn cội bồ đề đơn độc, nhìn một góc phố chiều nguội nắng hay nhìn người qua kẻ lại,… tất cả là để ngắm nhìn cõi lòng đang tan tác.

  • THU NGUYỆTLTS: Tập truyện Cánh đồng bất tận của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư được giới chuyên môn đánh giá cao như một hiện tượng văn học trong thời gian gần đây. Giữa lúc đông đảo bạn đọc đang hứng vị với hiện tượng này thì có một hiện tượng khác “ngược chiều” đã gây sốc dư luận.Để bạn đọc Sông Hương có thêm thông tin, chúng tôi xin trích đăng một số ý kiến sau đây.

  • HIỀN LƯƠNGVậy là Nguyễn Ngọc Tư sẽ bị kiểm điểm thật. Cầm tờ biên bản của Ban Tuyên giáo tỉnh Cà Mau trên tay, trong tôi trào dâng nhiều cảm xúc: giận, thương, và sau rốt là buồn...

  • BÙI VIỆT THẮNGTôi có theo dõi “vụ việc Nguyễn Ngọc Tư” đăng tải trên báo Tuổi trẻ (các số 79, 80, và 81 tháng 4 năm 2006) thấy các ý kiến khen chê thật ngược chiều, rôm rả và quyết liệt. Kể ra không có gì lạ trong thời đại thông tin mọi người đều có quyền cập nhật thời sự, nhất là trong lĩnh vực văn chương vốn rất nhạy cảm.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ“Người kinh đô cũ” (NKĐC - NXB Hội Nhà văn, 2004) là tác phẩm thứ 14 của nhà văn Hà Khánh Linh, cũng là tác phẩm văn học dày dặn nhất trong số tác phẩm văn học của các nhà văn ở Thừa Thiên - Huế sáng tác trong khoảng 20 năm gần đây.

  • HỒ THẾ HÀ   Trong cuộc đời mỗi con người, điều sung sướng nhất là được hiểu biết, khám phá và sáng tạo để ý nghĩa tồn sinh không ngừng được khẳng định và nâng lên những tầm cao mới. Theo đó, những thang bậc của nhận thức, nhân văn, của thành quả lao động lại biến thành những giá trị văn hoá vật thể và phi vật thể lấp lánh lời giải đáp.

  • TÔ VĨNH HÀNếu có thể có một miền thơ để mà nhớ mong, khắc khoải; tôi tin mình đã tìm được rồi, khi đọc Mưa Kim Cương của nhà thơ Đông Hà (Nxb Thuận Hoá, Huế, tháng 11.2005). Sợi dây mảnh mục như các khớp xương đan chằng, xéo buốt, chơi vơi; được giăng giữa hai bờ lở xói của cuộc đời. Trên cao là “hạt” kim cương thô ráp và gan lỳ hơn cả là đá nữa, nhưng lại giống với thân hình thần Vệ Nữ đang rơi, đang rơi, nhọn sắc, dữ dằn... Minh hoạ ở trang bìa xanh và sâu thẳm như những trang thơ.

  • TRẦN THANH HÀLGT: Có thể nói rằng, “Tiểu thuyết và tiểu luận về tiểu thuyết của Milan Kundera được xem như là một trong những hiện tượng độc đáo đáng được chú ý trong văn học Châu Âu hiện đại”. Mỗi cuốn tiểu thuyết cô đọng của nhà văn, mang lại cho độc giả một cái nhìn độc đáo về thế giới hiện đại và vị trí con người trong đó, một thứ triết học riêng về cuộc sống và mối quan hệ liên cá nhân, “các chủ đề sắc sảo và các tính cách con người sinh động được kết hợp với những suy tư về các đề tài triết học và hiện sinh mang tính toàn cầu”.

  • HOÀNG VĂN Đọc Hoang thai ta có thể hình dung ra xã hội Ba Lan đương đại và những vấn đề nẩy sinh trong xã hội này.