Để nhã nhạc cung đình Huế “sống lại” như ngày hôm nay, có công rất lớn của cụ Lữ Hữu Thi- nhạc công cuối cùng của triều Nguyễn. Cụ đã âm thầm, kiên trì vượt qua khó khăn trước những thăng trầm của lịch sử để giữ gìn và trao truyền ngọn lửa nhã nhạc, đưa nhã nhạc từ chỗ bị lãng quên trở thành di sản của nhân loại.
Phục vụ nhã nhạc cho hai đời vua
Ở tuổi 105, mặc dù sức khỏe đã yếu nhưng đầu óc của cụ Lữ Hữu Thi vẫn khá minh mẫn. Tiếp chuyện tôi trong căn nhà nhỏ ở thôn Thế Lại Thượng, xã Hương Vinh (thị xã Hương Trà, Thừa Thiên- Huế), cụ Thi vẫn nhớ rõ những ngày tháng cụ được vào cung phục vụ nhã nhạc cho các đời vua Khải Định và Bảo Đại.
Sinh ra trong một gia đình có ông nội và bố là những nhạc công nhã nhạc, nên từ khi còn để chỏm cụ Thi đã làm quen với đàn nhị, đàn tam, đàn nguyệt, đàn tỳ bà, địch, phách tiền, tam âm, trống bản, sáo… và những điệu ca tài tử xứ Huế. Mới 8 tuổi cụ đã sử dụng thành thạo các nhạc cụ và thuộc làu những điệu ca tài tử. Lên 10 tuổi, cụ đã cùng người thân trong nhà đi biểu diễn nhã nhạc phục vụ cho các lễ cúng trong dân gian để kiếm sống.
Nghề biểu diễn nhã nhạc phục vụ cho các lễ cúng thu nhập không đủ sống nên cụ Thi học thêm nghề kim hoàn. Nhờ năng khiếu bẩm sinh cộng thêm sự chuyên cần học hỏi nên chỉ một thời gian ngắn sau đó cụ đã trở thành thợ kim hoàn nổi tiếng và được triều đình mời vào cung chế tác các vật dụng bằng vàng.
Cơ duyên khiến cụ Thi được tham gia phục vụ nhã nhạc cho hai triều vua đến từ dịp cụ vào cung chế tác chiếc ly bằng vàng cho công chúa đầu của vua Khải Định. Một lần tình cờ phát hiện nhạc công biểu diễn nhã nhạc phục vụ cho công chúa đánh sai bản nhạc, cụ lên tiếng với công chúa. Được lệnh, cụ lần lượt biểu diễn tất cả các nhạc cụ một cách bài bản và được công chúa hết lời khen ngợi.
Biết đến tài năng của cụ Thi, vua Khải Định cho cụ vào đội nhạc Hòa Thanh của triều đình. Từ đó, cụ thường xuyên biểu diễn nhã nhạc phục vụ vua Khải Định và hoàng thân cũng như phụ vụ các lễ tế lớn của triều đình như lễ tế Giao, lễ tế đàn Xã Tắc... Đến thời vua Bảo Đại, ngoài biểu diễn nhã nhạc phụ vụ cho nhà vua và các lễ tế, cụ Thi cùng những nhạc công trong ban nhạc còn biểu diễn phục vụ các quan khách người Pháp.
Cách mạng tháng Tám thành công, sự sụp đổ của triều Nguyễn khiến ban nhạc Hòa Thanh bị giải thể. Trong khi những nhạc công khác trong ban nhạc đều bỏ nghề để mưu sinh bằng những công việc khác, cụ Thi vẫn đắm đuối với nhã nhạc. Cụ đi biểu diễn nhã nhạc phục vụ cho các lễ cúng trong dân gian để vừa kiếm sống vừa giữ gìn loại hình nghệ thuật truyền thống này. Thu nhập từ hoạt động biểu diễn này rất ít ỏi nhưng cụ luôn tự động viên mình phải chấp nhận khổ cực để giữ lại nét văn hóa truyền thống của cha ông.
Khi nhã nhạc cung đình Huế có dự án khôi phục, cụ Thi đóng góp rất nhiều công sức cho hoạt động này. Tuổi cao sức yếu nhưng cụ vẫn ngày đêm đứng ra truyền nghề cho lực lượng nhạc công Đội nhã nhạc cung đình Huế và những người khác đam mê nhã nhạc. Sự đóng góp của cụ đưa nhã nhạc cung đình Huế từ chỗ bị lãng quên đã “sống lại” và được công nhận là kiệt tác di sản văn hóa phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại.
“Cha truyền con nối” giữ gìn nghệ thuật truyền thống
Hiếm có nghệ nhân nghệ thuật truyền thống nào ở Huế cũng như ở Việt Nam lại được đông đảo con cháu, chắt nối nghiệp như cụ Thi. Cả 4 người con trai của cụ đều sinh ra khi nhã nhạc cung đình Huế đang đứng trước nguy cơ thất truyền do mất đi không gian diễn xướng, hàng loạt nhạc công bỏ nghề vì sức ép áo cơm.
“Lúc đó nghề nhạc công nhã nhạc phụ vụ các lễ cúng trong dân gian của tui thu nhập ba cọc ba đồng nhưng tui vẫn truyền dạy nhã nhạc cho con. Lúc đó tui nghĩ việc truyền dạy này không phải để con mình làm nghề mưu sinh mà là để chúng cùng mình giữ gìn nhã nhạc cho thế hệ sau”- cụ Thi kể.
Nghệ nhân nhã nhạc Lữ Hữu Viên (70 tuổi, con trai trưởng của cụ Thi) cho biết, từ năm 10 tuổi, ông đã được bố truyền nghề. Ban ngày ông đến trường học chữ, ban đêm học nhã nhạc từ bố. Ông Viên kể, lúc đó nhã nhạc không còn thịnh hành nữa nhưng ông vẫn học nghề một cách đam mê. “Được bố truyền dạy bài bản nên tui sớm sử dụng thành thạo những nhạc cụ và thuộc làu những điệu ca tài tử xứ Huế. Lớn lên, có nhiều lựa chọn về nghề nghiệp nhưng tui quyết định theo bố đi biểu diễn phục vụ các lễ cúng trong dân gian để thỏa nỗi đam mê”- ông Viên nhớ lại.
Nhiều năm trở lại đây, ông Viên miệt mài tham gia hướng dẫn, truyền dạy nhã nhạc cho nhiều nhạc công nhã nhạc cung đình Huế. Cũng như ông Viên, 3 người em trai của ông là Lữ Hữu Báu, Lữ Hữu Thiệu, Lữ Hữu Thành đều được cụ Thi truyền dạy nhã nhạc từ nhỏ và đều là những nhạc công nhã nhạc có tên tuổi ở Huế.
Ngoài 4 người con trai, cụ Thi còn truyền dạy nhã nhạc cho 7 người cháu nội và 6 người chắt nội của mình. Trong đó, 2 người cháu là Lữ Hữu Ngọc, Lữ Hữu Quang (con ông Viên) và người chắt Lữ Hữu Tô (con anh Ngọc) hiện là những nhạc công nhã nhạc của Nhà hát Nghệ thuật truyền thống cung đình Huế. Cháu Lữ Hữu Vinh (con anh Quang) hiện mới 10 tuổi nhưng đã theo học nhã nhạc từ cụ Thi gần 1 năm nay. Mỗi ngày Vinh đều giành 1-2 giờ đồng hồ học đánh đàn, thổi sáo, gõ trống do cụ Thi truyền dạy. “Cháu cảm thấy rất thích thú với những nhạc cụ này nên càng học càng mê”- Vinh chia sẻ.
Nhìn đứa chắt đang mê mẩn học chơi đàn nguyệt, cụ Thi cười mãn nguyện: “Để lớp trẻ thực sự đam mê học hỏi, điều quan trọng là phải làm cho chúng hiểu và cảm nhận được cái hay, cái đẹp của nhã nhạc, từ đó chúng có ý thức giữ gìn, phát huy loại hình nghệ thuật truyền thống này. Mấy đứa cháu, chắt của tui cũng như tui rứa, ngày mô không đánh đàn, gõ trống là trong người bứt rứt khó chịu”.
Theo danviet.vn
30 năm qua, anh lặng lẽ chăm chút ngựa như chăm chút con mình, cái nghiệp trông coi ngựa gắn người với ngựa cũng từ đó. Anh nói, cái nghề này, nếu không yêu nghề thì phải bỏ thôi, chứ công việc hoàn toàn khác hẳn, đòi hỏi phải tinh mắt, biết lắng nghe, siêng năng, cần cù…
Cổng Ngọ Môn Quan là cổng chính phía Nam của Hoàng thành Huế, đồng thời cũng là cổng chính và là bộ mặt của Đại Nội. Ý nghĩa của cổng Ngọ Môn là gì? Có phải là lối ngựa đi?
Quầy thư pháp Tràm hoa vàng của bà Trần Thị Cúc nằm trên đường Lê Lợi (TP Huế) đã trở thành địa chỉ quen thuộc của người dân và du khách yêu thư pháp. Họ đến để được nhìn ngắm nét bút tài hoa của người phụ nữ duy nhất ở mảnh đất cố đô theo nghiệp viết thư pháp.
Di tích Thanh Bình Từ Đường nằm sâu 50m trong kiệt 281, đường Chi Lăng (TP Huế). Sức hấp dẫn của ngôi từ đường được xếp vị trí loại 1 di tích văn hóa cấp quốc gia.
Sông Hương - quà tặng tuyệt diệu của tạo hóa cho Huế thiên hạ đã biết, nhưng từ khi những con đường ven sông và các cây cầu vươn nhịp nối đôi bờ ngày một nhiều hơn thì các khách sạn và nhiều công trình kiến trúc khác, thường trọng “mặt tiền” là con đường người xe tấp nập, “vô tư” quay lưng với dòng sông từng là nguồn cảm hứng bất tận cho thơ ca nhạc họa.
Nhân dịp mừng xuân, mừng Đảng, xin kể lại câu chuyện về một người đảng viên được dân lập miếu thờ và có một ngôi trường mang tên ông.
Hiện nay, nghệ thuật pháp lam- Huế còn nhiều kiệt tác chưa được khám phá. Ấn tượng về sự sáng tạo tinh xảo của người nghệ nhân đi trước là động lực để người đương thời tạo nên những tác phẩm mới...
Cống Địa Linh xem như dấu mốc cuối cùng của phố cổ Bao Vinh. (Thừa Thiên - Huế). Qua cống Địa Linh rẽ trái dăm trăm mét, du khách sẽ bắt gặp những tấm ván dài và phía trên là những ông Táo được đặt lên phơi khô trước lúc đưa vào lò. Ở Huế đây là nơi hiếm hoi còn "sót lại” nghề làm ông Táo với nhiều ý nghĩa trong phong tục của người Việt.
Người Pa Kô ở A Lưới, Thừa Thiên – Huế và nhiều dân tộc vùng cao khác đều có nghệ nhân khèn bè nhưng điệu khèn lúc thì như nắng mới, như gió mơn man, như lau lách rì rào; khi thì da diết như tiếng lá khô chậm rãi rời cành…, thì chỉ có được trong điệu khèn Kăn A Kết. Điệu khèn nổi tiếng những năm 60, 70 của thế kỷ trước, lưu truyền trong dân gian nhưng rất ít người biết được…
Đây là phiên chợ độc đáo của xã Quảng Ngạn, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên - Huế, ít nơi nào có được. Nói là chợ phiên Quảng Ngạn nhưng chợ thu hút rất đông người dân của các xã lân cận như Điền Hải, Quảng Công vượt sóng nước Tam Giang về đây tụ hội. Chợ chỉ diễn ra trong 3 ngày, từ mồng một đến mồng ba Tết Nguyên Đán, rồi tan và chờ đến dịp này năm sau mới họp lại.
Trải qua bao biến thiên, thăng trầm của lịch sử, nhưng người dân ở thôn Hòa Vang, xã Lộc Bổn, huyện Phú Lộc (Thừa Thiên-Huế) vẫn còn cất giữ nhiều tư liệu quý về Hoàng Sa. Từ những bản sắc phong về “Cai đội Hoàng Sa” của vua Gia Long; đến chiếc đại hồng chung khắc tạc công ơn người trấn quản Hoàng Sa năm xưa… Tất cả đều được người dân xem như “báu vật lịch sử” và bảo vệ cẩn thận.
Tranh làng Sình (xã Phú Mậu, huyện Phú Vang, Thừa Thiên - Huế) vốn là dòng tranh dân gian nức tiếng hàng trăm năm qua. Những ngày Xuân về, làng tranh này lại rộn ràng khoe màu như chưa từng có sự đứt gãy của thời gian.
Chiều ngày 19/01/2014, tại Gác Trịnh ( 103/19 nguyễn Trường Tộ - TP Huế), Câu lạc bộ tiêu sáo Huế đã tổ chức buổi giao lưu văn nghệ đón chào xuân mới. Đông đảo những người yêu nhạc Trịnh đã đến tham dự chương trình.
Khoảng 6h sáng 18/1, khi đang trên đường cập bến, cách cửa lạch biển Thuận An khoảng một km, tàu cá do thuyền trưởng Hồ Văn Hiền (trú thôn Hải Tiến, thị trấn Thuận An) điều khiển bị mắc cạn. Do sóng to nên tàu cùng 5 thuyền viên đã bị nhấn chìm ngay tại vùng cửa biển Thuận An.
Đương thời, vua Bảo Đại từng nhận xét về vẻ đẹp của Nam Phương Hoàng hậu rằng: “Nàng có vẻ đẹp dịu dàng của người con gái miền Nam, thùy mị và quyến rũ, pha một chút Tây phương làm tôi say mê”.
Sau bao thăng trầm của cuộc sống, tranh làng Sình xứ Huế có lúc tưởng chừng đã bị xóa sổ... Nhưng may mắn vẫn còn một người đau đáu với nghề làm tranh - Nghệ nhân Kỳ Hữu Phước. Ông đã gìn giữ và phục sinh nghề truyền thống có tuổi đời gần 500 năm.
Tình cờ, chúng tôi được chứng kiến trọn lễ A Riêu Piing của người Pakô ở xã Hồng Trung, huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên-Huế. Đây là lễ hội lớn nhất của người Pakô, được tổ chức 5 năm, thậm chí 10 năm một lần.
Trong dịp ghé thăm Huế đầu năm 2014, họa sĩ Nguyễn Đại Giang, cha đẻ trường phái upsidedownism - đảo ngược (Từ đảo nghịch cuộc đời đến đảo nghịch hội họa, Tuổi Trẻ ngày 15-2-2009), đã có buổi vẽ tranh thú vị tại gác Trịnh - căn gác nơi Trịnh Công Sơn sống thời trai trẻ ở Huế.
Điện Long An - Bảo tàng cổ vật cung đình Huế và những gì chứa đựng bên trong thực sự là một di sản quý báu.
Trong nghề đúc đồng, việc tạo mẫu có tính quyết định về nghệ thuật trong một tác phẩm. Là thế hệ thứ mười trong một gia đình có truyền thống làm nghề đúc đồng ở làng Dương Xuân xưa, nghệ nhân Nguyễn Văn Viện được tôn vinh là người thợ tài hoa, bởi khó có thể tìm thấy ở làng đúc đồng Huế người thứ hai có kĩ thuật điêu luyện và sức sáng tạo không ngừng như ông…