Nhạc 12 âm: Trật tự mới của sự bình đẳng

15:23 21/08/2014

Âm nhạc phi điệu thức bắt đầu nhen nhóm từ đầu thế kỷ 20 với những cách tân táo bạo trong hòa âm của trường phái Biểu hiện. Sự rũ bỏ dần dần những quy luật về điệu thức kế thừa từ hàng thế kỷ trước của âm nhạc phi điệu thức đã gây sốc lớn cho thính giả thời bấy giờ.
Họ coi đây là một sự nổi loạn trong lịch sử âm nhạc, nhưng không ngờ rằng nó lại dẫn đến một trật tự chưa từng có trong lịch sử sáng tác âm nhạc.

Biếm họa về buổi hòa nhạc của Schoenberg tại Musikverein, 31/03/1913

Sự nổi loạn và triết lý sáng tác mới

Với đặc trưng của âm nhạc phi điệu thức là sự rời rạc, không thuận tai, khó nắm bắt, ta có cảm tưởng như các nhà soạn nhạc theo phong cách này sáng tác để gây sốc và chọc giận thính giả. Thời kỳ đầu thế kỷ 20 đã chứng kiến rất nhiều những buổi ra mắt trở thành những vụ scandal lớn trong lịch sử âm nhạc.

Ngay từ những tác phẩm gai góc nhưng chưa hoàn toàn phi điệu thức thời kỳ đầu, Schoenberg đã gặp phải sự phản ứng mạnh mẽ của công chúng. Trong những buổi ra mắt các tác phẩm như Tứ tấu Dây số 1 (1907) và Tứ tấu Dây số 2 (1908), khán phòng luôn tràn ngập tiếng huýt gió phản đối, tiếng cười chế nhạo, tiếng rầm rập của khán giả rời ghế bỏ về, thậm chí cả những tiếng la hét: “Dừng lại đi! Đủ rồi!” đầy phẫn nộ của các nhà phê bình.

Đỉnh điểm phải kể đến vụ đình đám tại phòng hòa nhạc Musikverein, Vienna ngày 31/3/1913, trong một chương trình bao gồm các tác phẩm của Alexander Zemlinsky - người thầy duy nhất của Schoenberg, cùng các tác phẩm của Schoenberg và hai học trò của ông là Alban Berg và Anton Webern. Như vậy, có thể nói buổi biểu diễn cô đọng cả sự nghiệp của Schoenberg: những gì ông đã học trong quá khứ, những gì ông đang làm trong hiện tại, và những gì ông sẽ để lại cho tương lai. Bi thảm là buổi hòa nhạc đã biến thành một mớ hỗn độn khi bài hát Uber die Grenzen des All (Vượt ngoài giới hạn của Vũ trụ) của Berg vang lên với hợp âm đầu tiên gồm tất cả 12 cao độ được chơi bởi dàn sáo gỗ và kèn đồng. Những tiếng cười lớn bắt đầu tràn ngập thính phòng trước âm thanh được miêu tả là “quàng quạc và ken két” của hợp âm đó. Sự việc trở nên trầm trọng hơn khi một số khán giả bắt đầu ẩu đả với nhà tổ chức, và cảnh sát được điều động đến để can thiệp. Một nhạc sĩ có mặt tại buổi biểu diễn nhận xét mỉa mai rằng cuối cùng tiếng ẩu đả lại là âm thanh du dương nhất trong buổi tối hôm đó.

Vì sao âm nhạc phi điệu thức lại gây khó chịu và phẫn nộ cho người nghe đến vậy? Năm 1863, trong chuyên luận mang tên Những cảm nhận về âm thanh như một nền tảng sinh lý cho Lý thuyết âm nhạc, nhà vật lý người Đức Hermann von Helmholtz đã giải thích tính chất vật lý của các chuỗi hòa âm tự nhiên để dựa vào đó lý giải sự cảm nhận của con người về âm thuận và âm nghịch. Khi hai cao độ vang lên cùng một lúc, hai sóng âm của chúng sẽ gặp nhau và những khoảng giao nhau sẽ tạo ra hiệu ứng nhịp đập (beats) gây cảm giác khó chịu cho tai. Nếu hai nốt cách nhau một quãng tám, tần số sóng âm của chúng sẽ gấp đôi nhau, bởi vậy khi giao nhau, hai sóng âm sẽ trùng theo tỷ lệ 2:1 và không gây ra cảm giác nhịp đập ngang tai. Hai nốt cách nhau một quãng năm cũng tạo nên hợp âm “sạch”, thuận tai, bởi chúng có tỷ lệ 3:2. Trong khi đó, những quãng nửa cung hay quãng bảy lại gây cảm giác khó chịu cho người nghe.

Tuy không biết về đặc tính vật lý nói trên của âm thanh nhưng từ lâu các nhà soạn nhạc cổ điển phương Tây đã nhận ra điểm đặc biệt này trong sự cảm nhận âm nhạc của con người và dựa vào cảm nhận âm thuận-nghịch tự nhiên đó để phát triển các hệ thống điệu thức - hệ thống phân chia cấp bậc các cao độ. Âm nhạc có điệu thức tuân thủ các quy luật về hòa âm, xác định những hợp âm nào là quan trọng, được dùng nhiều trong từng giọng. Ví dụ như một bản nhạc giọng Đô trưởng thì phải mở đầu và kết thúc bằng hợp âm chủ là hợp âm Đô trưởng. Các nghịch âm trong âm nhạc cổ điển truyền thống chỉ có vai trò hoặc làm bước đệm để chuyển giọng hay trở về âm chủ, âm át, hoặc tạo ra các hiệu ứng ngang tai có chủ đích cho bản nhạc, ví dụ như cảm giác về sự hỗn loạn hay sự xấu xa (quãng ba cung - tritone - là một hợp âm nghịch được gán biệt hiệu là “hợp âm của quỷ dữ”).

Bước sang một kỷ nguyên được dẫn dắt bởi tư tưởng phải hiện đại hóa, âm nhạc phi điệu thức bắt đầu tìm cách dẹp bỏ hệ thống phân cấp lâu đời trong âm nhạc đó. Tiêu chí của âm nhạc không còn là để tạo ra những âm thanh du dương, thuận tai nữa mà phải thể hiện sự thay đổi và tính hiện đại.

Schoenberg viết vào năm 1910 như một lời cảnh báo đến công chúng và cũng là cho chính mình về con đường âm nhạc phi điệu thức mà ông đang khai phá: “Tôi cảm nhận thấy sức nóng của sự nổi loạn đang bốc lên thậm chí từ những tâm hồn mỏng manh nhất, và tôi ngờ rằng ngay cả những người đã tin tưởng vào tôi cho đến tận bây giờ cũng sẽ không muốn thừa nhận sự cần thiết của tiến triển này.” Như vậy Schoenberg tự coi mình là một kẻ nổi loạn, nhưng lại coi sự nổi loạn nhằm lập một trật tự mới cho truyền thống âm nhạc kế thừa từ Bach, Mozart, Beethoven là một tiến triển tất yếu của lịch sử.

Schoenberg tưởng tượng mình đóng hai vai, gánh vác hai trọng trách trong sứ mệnh phát triển âm nhạc phi điệu thức. Một mang hàm ý chính trị là giúp “giải phóng” các nghịch âm - điều ông coi là hiện thân của những tầng lớp bị trị hàng thế kỷ trước trong âm nhạc. Hai là vai trò như một nhà khoa học để nghiên cứu và tìm ra một hệ thống kỹ thuật sáng tác - một phương thức tổ chức âm thanh tối thượng của thời đại mới để thay thế cho truyền thống âm nhạc của một thời đã qua.

Trật tự mới: Nhạc 12 âm

Vậy quy luật sáng tác 12 âm mà Schoenberg đề ra là gì? Một ngày năm 1923, Schoenberg mời các học sinh và bạn bè đến nhà mình ở ngoại ô Vienna để công bố về một quy luật sáng tác hoàn toàn mới mà ông vừa phát minh sau một thời gian dài loay hoay tìm hướng đi với âm nhạc phi điệu thức.

Nếu nhìn vào các phím đàn piano, ta có thể nhận thấy giữa hai nốt Đồ và Đố có tổng cộng 12 phím đàn cả đen lẫn trắng. 12 nốt liền nhau này tạo thành gam bán cung, tức là tất cả các nốt liền kề đều chênh nhau một khoảng cách có giá trị nửa cung. Mục đích của Schoenberg là tìm ra một hệ thống sáng tác sử dụng tất cả 12 âm này một cách đồng đều, không quy định âm chủ, âm át, và không thiên vị bất cứ một âm nào. Làm thế nào để một nhạc sĩ đảm bảo mình sử dụng tất cả 12 nốt với cường độ như nhau trong một bản nhạc? Quy luật sáng tác 12 âm của Schoenberg được minh họa qua bảng dưới đây:

 


Hàng đầu tiên P0 là giai điệu gốc (prime), sử dụng cả 12 nốt nhạc theo một trật tự bất kì mà tác giả tự sáng tác ra. Trong ví dụ này, giai điệu mở đầu bằng nốt Si (B) và kết thúc ở nốt La (A). Tiếp đó, I0 là giai điệu gốc được lộn ngược (inversion), tạo nên một giai điệu với đường nét đối xứng trên dưới so với giai điệu gốc P0 (ví dụ nếu ở P0, nốt Si đi lên nửa cung thì ở I0, nốt Si đi xuống nửa cung). P1, P2, v.v là giai điệu gốc P0 lần lượt tăng lên nửa cung, một cung, v.v.; và tương ứng với mỗi dãy P này là các dãy giai điệu I lộn ngược của nó. Các dãy R và RI là giai điệu đảo ngược chiều lại của P và I. Với việc chọn ra một vài dãy trong bảng cho sáng tác của mình, các nhà soạn nhạc có thể chắc chắn rằng mình sử dụng tất cả các nốt một cách đồng đều, không thiên vị bất cứ nốt nào cả. Bởi vậy, thoạt nghe các tác phẩm nhạc 12 âm cho cảm giác rất rời rạc, như thể tác giả là một đứa trẻ ba tuổi ngồi vào đàn và ấn những nốt nhạc không liên quan gì đến nhau. Nhưng thực chất nó lại tuân theo những quy luật cực kỳ chặt chẽ như vậy.

Không dễ chấp nhận khi đưa một quy luật mang tính toán học cực kỳ chặt chẽ và máy móc áp dụng vào một hoạt động đòi hỏi tính tự do sáng tạo và cảm xúc con người như sáng tác âm nhạc. Nhưng đó lại là triết lý sáng tác mới của các tác giả hiện đại thế kỷ 20. Schoenberg cùng hai học trò của mình là Berg và Webern đã lập ra Trường phái Vienna thứ hai (Second Viennese School) với mong muốn thay Trường phái Vienna thứ nhất của Mozart, Haydn và Beethoven dẫn dắt nền âm nhạc cổ điển phương Tây phát triển theo hướng mới. Các tác phẩm 12 âm mẫu mực của Schoenberg phải kể đến Khúc biến tấu cho Dàn nhạc (1928), Năm khúc nhạc và một Tổ khúc cho piano (1931).

Nếu như Schoenberg là người phát minh ra phương pháp sáng tác nhạc 12 âm cơ bản thì có thể nói Webern là người đã gọt giũa nó thành một nghệ thuật tinh vi hơn. Tuy là một quy luật sáng tác rất chặt chẽ nhưng nhạc 12 âm cũng mở ra vô số những khả năng khác nhau. Chỉ riêng giai điệu gốc P0 cũng có đến chính xác là 479.001.600 (giai thừa của 12) cách sắp xếp khác nhau. Điều này cũng tương tự như hiện tượng các bông tuyết đều mang cấu trúc tinh thể nhưng không có hai bông tuyết nào giống hệt nhau cả. Nhận ra sự tương đồng này, Webern đã hướng đến vẻ đẹp tinh khiết và hoàn hảo trong cấu trúc tinh thể của bông tuyết để làm hình mẫu cho những sáng tác 12 âm của mình, ví dụ như trong Khúc biến tấu cho Dàn nhạc (1940). Webern coi quy luật sáng tác 12 âm là một cách tổ chức sắp xếp âm thanh hoàn hảo nhất, y như quy luật hoàn hảo của tự nhiên khi tạo ra các tinh thể vậy. So với Schoenberg và Berg, có lẽ Webern là tác giả nhạc 12 âm có phong cách chặt chẽ và tối giản nhất. Các tác phẩm như Tam tấu Đàn dây (1927) hay Khúc biến tấu cho Piano (1936) sử dụng rất ít “nguyên liệu” âm nhạc (như các quãng hay sắc thái v.v) mà tập trung vào việc kiến tạo cấu trúc đối xứng đặc trưng mà ông ưa chuộng.

Vẻ đẹp của nhạc 12 âm có thể không được đôi tai của chúng ta nhận ra ngay một cách dễ dàng như đối với âm nhạc có điệu thức truyền thống. Nó vượt ngoài khả năng cảm nhận tức thì của các giác quan, đòi hòi sự tìm tòi của trí óc để khám phá ý nghĩa và cái đẹp tinh khiết ẩn đằng sau những âm thanh mà đôi tai của chúng ta tưởng nhầm là mớ lộn xộn đó. Có lẽ bởi triết lý sáng tác hiện đại của mình mà Trường phái Vienna thứ hai đã có tầm ảnh hưởng lớn đến nền âm nhạc cổ điển từ nửa sau thế kỷ 20 cho đến tận thời kỳ đương đại.

Nguồn: Khánh Minh - Tia Sáng

Đọc thêm:

Những cách tân mở đầu âm nhạc thế kỷ 20
http://www.tiasang.com.vn/Default.aspx?tabid=115&CategoryID=41&News=7753



Tài liệu tham khảo:

Griffiths, P. (1978) Modern Music: A Concise History from Debussy to Boulez, Thames and Hudson: World of Art

Morgan, R.P. (1991) Twentieth- Century Music, W.W.Norton: The Norton Introduction to Music History

Ross, A. (2007) The Rest is Noise: Listening to the Twentieth Century, Harper Perennial

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)

  • Nhạc và lời: NGUYỄN VĂN VŨ

  • TÔN THẤT BÌNH

    Nếu dân ca là suối nguồn cảm hứng của nhân dân lao động trong cuộc sống thì hò là phương thế thể hiện tâm tình tràn đầy xúc cảm một cách trung thực nhất.

  • VĂN CAO
           Hồi ký

    Sau triển lãm Duy nhất 1944 (Salon Unique), tôi về ở một căn gác hẹp đầu phố Nguyễn Thượng Hiền.

  • TÂM HẰNG NGUYỄN ĐẮC XUÂN  

    Tin từ Làng Mai Pháp quốc cho biết: Đêm giao thừa Thầy nói về Phạm Duy cho khoảng 70 cháu sinh viên Việt Nam về thăm Làng. Bài giảng này cũng là một loại hommage(1) cho Phạm Duy. Có thể nghe lại trên mạng chỗ Pháp Thoại online của Thầy vào ngày 30 Tết vừa rồi.

  • Trưa ngày 27/01/2013, cây đại thụ của làng nhạc - Nhạc sĩ Phạm Duy – đã qua đời, hưởng thọ 93 tuổi. Nhạc sĩ Phạm Duy có số lượng tác phẩm âm nhạc đồ sộ, trong đó có nhiều tác phẩm nổi tiếng. Khi còn sống, nhạc sĩ Phạm Duy cũng thường xuyên cộng tác với Tạp chí Sông Hương. Chúng tôi xin đăng lại bài viết cuối cùng của nhạc sĩ đã gởi cho tòa soạn trước khi mất và đã được đăng trên Sông Hương số Tết Quý Tỵ 2013, như một nén hương tưởng nhớ người nhạc sĩ tài hoa.

  • “Đời là những cơn mưa vô thường/ Trói chân em bên đường/ Nước dâng cao chân tường/ Đường xa chân ướt phơi nắng dầm sương”...

  • NGUYỄN TẤN TÔN NỮ Ý NHI

    Trong ý niệm của nhiều người từ hạng trí thức cao cho đến bình dân, ngoại trừ dân nghiên cứu dân tộc nhạc học, hát xẩm là một thể loại âm nhạc có xuất thân thấp kém, luôn gắn liền với hình ảnh của người khiếm thị và cây đàn nhị từ góc phố, sân đình hay bãi chợ. Nhắc đến hát xẩm, đa phần người ta liên tưởng ngay đến những ca từ mộc mạc, dung dị và lắm khi dung tục.

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂN 

    Đêm giới thiệu Trường ca Hàn Mặc Tử, tại Học viện Âm nhạc Huế thầy Trần Văn Khê và nhạc sĩ Phạm Duy đã đưa chúng ta đi từ cõi thực mộng mơ trải qua những đau đớn, vật lộn với cơn đau đến ngất lịm và cuối cùng nương tựa vào niềm tin tâm linh để hiện hữu.

  • TRƯƠNG ĐÌNH NGỘ

    Thượng thanh khí tiết ra nguồn tinh khí
    Xa xôi đời trăng mọc nước Huyền Vi
    Đây Miên Trường, đây Vĩnh Cữu tề phi
    Cao cao vượt hai hàng bóng vía


  • (Bản dịch của Trương Đình Ngộ)

  • NGUYỄN THỤY KHA

    Có thể nhận ra sự giao hòa giữa nhiều chiều cảm xúc trong quá trình thai nghén bài hát "Thiên Thai". Song có lẽ cái lớn nhất, cái bao trùm, cái gốc để tỏa ra sự tràn trề giai điệu của bài hát này chính là sự phản ảnh có thực của một dòng sông nào đó.

  • ĐẶNG TIẾN “Bộ môn” Thơ đang lùi bước trong xã hội hiện đại. Đời sống đô thị nhanh bước theo nhịp tiến hóa của công nghiệp, đẩy lùi biên độ của thơ: kỹ thuật hiện đại cung cấp cho quần chúng - nhất là thanh niên - những phương tiện giải trí và truyền thông hấp dẫn và nhanh chóng hơn những bài bản vần vè trước đây - dù sao cũng gắn liền với nếp sống nông thôn.

  • NGUYỄN HOÀN Nhân kỷ niệm 10 năm ngày nhạc sĩ Trịnh Công Sơn về cõi thiên thu 1/4 (2001-2011), Nhà xuất bản Trẻ xuất bản cuốn sách “Thư tình gửi một người” tập hợp hơn 300 trang thư tình của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn gửi Ngô Vũ Dao Ánh, người tình có ảnh hưởng mạnh mẽ và lâu bền trong cảm hứng sáng tạo âm nhạc của nhạc sĩ.

  • DƯƠNG BÍCH HÀDân tộc Tà Ôi, cũng như các dân tộc cư trú dọc Trường Sơn, âm nhạc là một bộ phận thiết yếu trong đời sống văn hóa của họ, nó không chỉ mang chức năng giải trí đơn thuần mà gắn liền với tín ngưỡng, với đời sống tâm linh, là phương tiện để tiếp xúc với thần linh.

  • NGUYỄN THỊ HỒNG SANHNgười ta gọi Trịnh Công Sơn là “sứ giả tình yêu”, “người tình của mọi thế hệ”, nhưng có lẽ chức danh “con người thi ca” mà nhạc sĩ Văn Cao yêu mến dành tặng cho ông là phù hợp hơn cả.

  • TrẦn thỊ AnCho đến nay, ca trù vẫn là một thể loại văn chương âm nhạc rất xa lạ với đông đảo đại chúng. Trong ấn tượng chung, ca trù là một sinh hoạt âm nhạc trước hết gắn với lễ lạt của các ông hoang bà chúa hay các miếu đền, sau nữa là thú ăn chơi ở dinh quan, thậm chí trở nên sa đọa và trụy lạc nơi ca quán.

  • NGUYỄN THỤY KHATừ sau "Đề cương văn hóa" của Đảng ra đời năm 1943 sáu chữ "Dân tộc - khoa học - đại chúng" đã trở thành tâm niệm của những chiến sĩ cách mạng làm công tác văn hóa. Song ngay cả khi Cách mạng tháng Tám thành công, rồi cả dân tộc bước vào cuộc trường kỳ kháng chiến thì cho đến trước chiến dịch Điện Biên, chữ "Dân tộc' trong "Đề cương văn hóa" vẫn chỉ được các nghệ sĩ khai thác ở những vốn cổ của người Kinh, trong đó có nghệ thuật âm nhạc.

  • NGUYỄN THỤY KHATrong hai đêm 2 và 3.06.2004 tại Nhà Hát Lớn, Hà Nội đã diễn ra chương trình hoà nhạc của Dàn Nhạc Giao Hưởng Việt Nam dưới sự chỉ huy của Giáo sư - Nhạc trưởng người Anh Colin Metters - Cố vấn âm nhạc và nhạc trưởng hợp tác chính của Dàn Nhạc Giao Hưởng Việt Nam trong dự án 5 năm nhằm củng cố và phát triển dàn nhạc lên ngang tầm quốc tế.

  • VĂN THAO... Tôi tập tễnh bước một leo lên cầu thang ngôi nhà số 108 phố Yết Kiêu vào một ngày giáp tết năm 1976. Đã sang tiết xuân, trời nắng nhẹ mà vẫn lạnh. Tiếng đàn dương cầm vọng ra. Một điệu vans. Giai điệu của bản nhạc mượt mà, lấp lánh như những hạt nắng xao động trên vòm cây. Một giai điệu mà tôi chưa nghe bao giờ.

  • MẶC HY    Hồi kýThế là tôi và Lê Lự, mấy đêm nay, lại được nằm chỏng khoèo trên mấy tấm ván nóc chuồng trâu nhà mẹ An tại Khe Giữa để đón một cái Tết thứ hai ở chiến khu Ba Lòng.