Nhà văn và môi sinh sáng tạo

15:27 03/12/2009
NGUYỄN THANH HÙNGVăn học là cuộc sống. Quan niệm như vậy là chẳng cần phải nói gì thêm cho sâu sắc để rồi cứ sống, cứ viết, cứ đọc và xa dần mãi bản thân văn học.

(Ảnh: Internet)

Đã nói văn học là cuộc sống tức là thừa nhận khát vọng nhòm ngó tới sự sống và con người bên ngoài không gian và thời gian trái đất. Nơi ấy phải chăng cũng có một giống người.Con người ở những hệ tinh vân này có phải là sự "lại giống" của "cây sậy biết suy nghĩ" (Patxcan) là "động vật bệnh hoạn" (Uramunô), là "con vật phù hợp" (Musin) như người ta quan niệm?

Từ mông lung đến mênh mông, văn học lại tự cho mình là khoa học về con người xã hội, là sự tiếp cận, phân tích, cắt nghĩa, đánh giá con người bằng bộ đồ giải phẫu ngôn ngữ nghệ thuật. Đó cũng chưa phải là văn học thứ thiệt, văn học sống, với tư cách là sản phẩm của sáng tạo mà là văn học quy chuẩn, văn học trên bàn mổ lý luận. Đặc trưng "nhân học" của văn học dù được dàn đều trên những bình diện sinh vật, tâm lý, xã hội, thẩm mỹ... thì cũng vẫn chưa làm cho văn học sáng tỏ hơn. Hình tượng văn học được đúc kết bằng những bình diện trên của con người dường như vẫn còn thiếu một cái gì sâu sa và cao đẹp của văn hóa người.

Có văn hóa thì mới được tự do. Có tự do mới có quyền lựa chọn. Lựa chọn là quyền năng lớn lao và đích thực của con người có ý thức. Tự do đó thể hiện trong lẽ xuất sử của người xưa. Tức là chọn một lối sống, một cuộc sống, một giá trị sống cho mình để thực hiện sự giải thoát lớn cũng chỉ bằng hai cách đi và về. "Đi" thì sẽ gặp, gặp nhân quần xã hội và lặn ngụp trong biển đời vây hãm. "Về" là gặp lại chốn giao thoa giữa thế sự và vĩnh hằng. Nguyễn Khuyến là thế. Ông có nhằm giữ lại họ tiết thu Việt Nam với làng cảnh u nhàn đâu! Ông chỉ coi tâm hồn là một trạng thái của phong cảnh. Thân phận ông ở trong muôn loài.Tâm sự ông ở trên muôn loài. Ba bài thơ thu của ông (Thu vịnh, Thu điếu, Thu ẩm) chắc gì đã là tâm cảnh, mà hơn thế, ở trên cảnh. Nếu là trong cảnh thì sẽ thấy sự trong trẻo, thanh tịnh và u hoài. Suy diễn thêm, sẽ là "lòng yêu nước mờ nhạt"! với "lý do kiệt xuất "ngoài văn học là ca ngợi vẻ đẹp thiên nhiên của quê hương là biểu hiện của lòng yêu nước.

Nếu nhìn ba bài thơ vượt lên trên cảnh sẽ thấy một mã (code) chung, là cái bé xíu mảnh mai, là cái quá cao, quá thấp, là quá nhanh và quá chậm, quá lác đác xiêu dạt, là quá hòa lẫn, quá tự nhiên đến hững hờ. Sự quá ấy từ chối khả năng bắt ghi của thực tồn cảm giác, là tự động hao tán thành tê liệt. Sự vô cảm ấy được khách thể hóa từ trái tim thổn thức âu lo đã dựng thành những hình tượng thơ cứng đơ, côi cút giữa đời. Đây sẽ là cơ sở nhân bản, là lý do đời để ông thấy tiếc thương những vùng "lưu không" giữa khát vọng và "tuổi cao, phận bạc, chí khí thấp", giữa cái không đâu nhỡn tiền đòi sa nước mắt. (Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe). Nguyễn Khuyến rất buồn vì cứ thấy mình không ra sao dù chưa nói hẳn ra là "đồ vô tích sự" của kiếp sống thừa. Thẹn với Đào Tiềm cũng là từ tâm sự ấy. Nỗi sợ suốt đời quấy sôi nhà thơ. Ông cầu xin những hồn vía cứng cáp, thản nhiên hơn.(Chú Táo bên đình sang với tớ. Ông nghè xóm chợ lại cùng ta) Nhân cách làm người ở Nguyễn Khuyến biểu hiện ở những điều tinh vi này: biết thẹn, biết tiếc nuối, biết sợ. Thanh minh cho sự trong sạch của mình trước danh lợi và cường quyền bằng câu thơ di chúc. (Rằng quan nhà Nguyễn cáo về đã lâu). Sự vần xoay của tạo hóa làm lộ ra cái vô thường và lẽ biến dịch thành cái xa, cái mất như một mặt của hiện thực mà con người không thể với tới, cũng là nỗi sợ ám ảnh vào cái nhìn tiêu tán:

            "Một lá về đâu xa thăm thẳm
            Nghìn làng trông xuống bé con con"

Vì thế xuất hay sử, đi hay về trong thơ Nguyễn Khuyến vẫn tồn tại một cái tôi phủ định, mong muốn vượt qua giới hạn bản thân mình. "Tựa gối ôm cầu lâu chẳng được" là sự phủ định một cách sống đã chọn. Dù là ôm cầu câu hờ hững nhưng cũng không thể cứ kéo dài cung cách ấy. Đó là bi kịch không thể quên đời và cũng là không thể quên mình, quên cái tôi, cái bản ngã chân thật nhất ở nhà thơ.

Như vậy đời sống và con người mà văn học xem là nội dung phản ánh chỉ mới là chất sống, là sinh khí của nó mà thôi. Không bao giờ nhà văn lại phản ánh cái không phải là mình. Đã từng và mãi mãi văn học chỉ có thể phản ánh cuộc sống sâu sắc thông qua cái tôi phong phú vô tận như là sự tiềm sinh (Anabiosis) của con người. Văn học muốn trở về đời sống và cải tạo hiện thực trước tiên phải khám phá những thực thể vô hình tàng ẩn ở những chỗ giáp ranh hiển sinh và tiềm sinh. Ở Việt Nam, Nam Cao đã phát hiện ra được tiềm năng con người ở những chỗ "lưu không" như thế trong "Chí Phèo" và "Đôi mắt". Tác phẩm nào chưa giải quyết được vấn đề hiện hữu của chính tác giả, của cái tôi đích thực nhất trong một con người là "cái có thể" do lịch sử của chính người đó tạo lập nên thì vẫn bị cầm tù trong "chủ nghĩa nhân văn lạc quan cổ điển" và trong những giấc mơ mãn nguyện cùng sự tích cực vô lo làm hoang vắng thế giới con người.

Văn học hiện đại đang đứng trước một thế giới thường xuyên lỗi nhịp. Nói trắng ra, đó là những bi kịch nội tâm, những hài kịch xã hội và những thảm kịch vũ trụ trong luật tương tác của nó cần được văn học khám phá, phối trí và soi sáng thêm. Văn học phải kiên nhẫn hướng vào nơi trí tuệ bắt gặp cái hư không và sự thuần khiết mà chứa đầy năng lượng tư tưởng. Đó là nơi đụng độ giữa quỷ và người, giữa kinh nghiệm hàng ngày và vĩnh cửu. Tất cả những cái đó chưa có sẵn, chưa một lần diễn ra. Nó là "cái có thể", là "sự tiềm sinh" trong đời sống con người để từ con người lo âu trở thành con người tự chữa lành mọi vết thương cho mình mà văn học cần khám phá và biểu hiện.

Nói văn học là nghệ thuật của ngôn từ rất dễ sa vào "ngôn ngữ luận" và "hình thức chủ nghĩa". Một khi trí tuệ lý thuyết chỉ mới xem ngôn từ như chất liệu và phương tiện nghệ thuật của văn chương. Thử tự hỏi từ ngữ tạo ra ý nghĩa hay ý tưởng tạo ra ngôn từ? Chưa có được minh kiến nhưng để lấp chỗ trống và thực lòng lảng tránh ta phải lưu ý bình diện diễn đạt của văn học thông qua phương tiện, hình thức ngôn ngữ đồng thời nhấn mạnh đến bình diện cấu trúc của tác phẩm bao gồm chức năng giao tiếp và lý thuyết đọc văn. Thực chất cấu trúc của văn bản nghệ thuật là cấu trúc nhân tạo, cấu trúc ước lượng (structure évaluative). Nó được sản sinh bởi sự quy chiếu của kinh nghiệm và hành động dự kiến trong một hệ thống khép kín.

Hiệu quả cấu trúc tác phẩm qua chức năng giao tiếp chỉ có được nhờ mối liên hệ quen thuộc và thông thường của tình huống xảy ra trong đời sống. Cái đó không gì khác hơn là "âm sắc cơ bản của sự tồn tại cái tôi nhà văn". Đó là cảm xúc mãnh liệt và trung thực nhất được người đọc khám phá và hiểu ra. Không có một văn bản thơ ca nào tồn tại tự nó. Phải qua giao tiếp để độc giả đưa lại hiện thực cho bài thơ. Đọc văn thơ là để nhìn thấy đường thẳng của sự diễn đạt văn học. Còn lại là phải "nghe thơ" để nhận ra cái "kiến trúc âm thành tình cảm", cái cảm xúc người làm thành dưỡng chất nuôi sống bài thơ và sự đối thoại giữa nhà văn với người đọc. Lời nói trong tác phẩm là "lời truyền miệng" với biết bao ám tín tồn tại ngoài ngôn ngữ. Chính lời truyền miệng liên kết những nhà thơ của các nền văn minh lại để nhiều người cảm nhận được năng lực người có mặt trong sự nói năng. Đây là đường cong uyển chuyển, hài hòa phổ vào ngôn ngữ làm cho nó có độ căng nở và thu kết bởi sự hấp dẫn đa chiều, bởi sự nhường nghĩa, chuyển nghĩa cho nhau. Ở đây ta thấy cái lý tồn tại xác đáng của cấu trúc tác phẩm văn học. Đúng như nhà thơ Anh T.Êliôt viết "Ngôn từ và trật tự là một cặp nhảy hoàn mỹ chẳng chịu rời nhau nửa bước".

Nghe thơ tức là đọc thơ bằng tai, một bộ vi xử lý nhậy cảm của con người (Đã nghe rét mướt luồn trong gió; Anh nghe thu dứt lá gọi đời đi...) Nghe thơ qua đọc để biết, để hiểu bề mặt sự kiện. Tâm trí người nghe rõi theo câu nói sẽ tiếp xúc "cận thành" với sức lôi cuốn vào đó của lời nói, kích thích sự nồng nàn những rung cảm, làm lan tỏa ánh sáng vỗ về, giáo hóa nơi đáy sâu tâm hồn đang nghe ngóng. Ngôn từ văn học né tránh sự thuyết minh duy lý và hiện hữu dưới hình thức thật mong manh. Nó không tồn tại biệt lập mà như một yếu tố tiếp sức đi theo sự chuyển hóa hình tượng nghệ thuật để có những khả năng dự đoán khi đọc nó. Tiếng nói tự nó chỉ là âm thanh. Nó chỉ bắt đầu có nghĩa khi con người lồng ý thức, tâm hồn minh vào nó, mang lại những tiền đề hội giao với người khác. Trong lời truyền miệng thơ văn có dấu vết quan hệ với người xưa và là sự tái tạo cách sống của con người hiện tại. Muốn ngôn ngữ văn học hoàn thiện phải để nó thấm nhuần nhân cách con người bằng những ấn tượng xúc cảm trái tim.

Rainer Rilke (Rainơ Rinke - nhà văn Áo 1875-1926) rất sợ sự minh bạch không hương sắc trần gian của ngôn từ. "Tôi sợ hãi lời nói của loài người. Họ nói cái gì cũng rõ ràng minh bạch quá". Còn Phùng Khắc Bắc thì bối rối: "Ký hiệu của thơ tôi là sự minh bạch trong rắc rối đến khôn cùng". Sự minh bạch ngây thơ ngăn cản trí tưởng tượng về sức chứa đựng, sức tỏa chiếu và xúc cảm nôn nao mà mỗi từ gợi lên như hơi thở. Không có lời nói nào đơn thuần chỉ là lời nói. Có khi đó là lời nguyền, lời chúc phúc, là vẻ đẹp, là nỗi đau, là hoa, là rác, là dối trá, là chân thành, là ánh sáng... cốt để cứu thế gian. Tác phẩm văn học thường chứa trong mình dòng sông ngôn từ và mạch ngầm văn bản. Cả hai chi lưu ngôn từ ấy đẩy nhà văn đi vào một thế giới khác, được tạo nên bởi trí tưởng tượng hư ảo mà trí nhớ kết hợp với liên tưởng để con người lặn sâu vào những bí ẩn của đời sống, biến đổi cái thường nhật thành giá trị đời đời.

Đã đến lúc cần tỉnh táo giải thoát nhà văn và người đọc khỏi những lối cũ đường quen của ngôn từ đã làm khô cằn trí tưởng tượng, sự rung cảm và tư tưởng nhân bản trong sáng tạo và thưởng thức văn học.

Dùng ngôn từ để khám phá ra một thế giới chưa từng có trong văn học đã là mối quan tâm của nghệ sỹ nhưng muốn tái tạo ngôn ngữ văn bản nghệ thuật thành tác phẩm văn học sống động trong bạn đọc lại cần "một cộng đồng lý giải" tác phẩm, để phát hiện đầy đủ ý nghĩa tàng ẩn của sự thật đời sống. Ngôn ngữ văn học thường hướng tới một cái khác. Nó là phương tiện để tra vấn cái chưa từng biết. Nó đem lại cho cái chưa từng biết điều kiện sống qua âm thanh, tức là một hình thức giả tưởng của đời sống. Hình thức này có tạo ra được khả năng lĩnh hội nghệ thuật văn học của con người hay không lại là vấn đề của tài năng nghệ sỹ.

Tác phẩm văn học không còn là một vũ trụ thuận lý, không còn là nơi ẩn cư êm ả của người đọc. Tác phẩm văn học chống lại sự giải thích tác phẩm bằng ngôn ngữ sáo lười mà mở rộng khả năng đồng hóa bằng hoạt động của con người. Bởi vì "nói ắt là không trúng" như Thiều gia quan niệm. Tác phẩm văn học là một xã hội trong xã hội. Ở đó người ta thể hiện một cách sống, những nỗi niềm xúc động và luôn ngó chừng truyền thống đã huyền thoại hóa để quay về với nguồn suối đầy sinh khí đời sống đã được kinh nghiệm trực giác tài tình bao quát. Đó là phong cách tư duy văn học hướng về cụ thể, muốn tham dự vào cuộc sống chứ không bị ngôn ngữ diễu cợt hay ngắm nhìn cuộc sống từ xa.

Đón trước và đi tắt mà vi phạm quy luật của tiến trình thực tại chỉ là thói vay mượn trí óc, khuyến khích sự chuyển giao tri thức và phương pháp nhàn nhã mà không hiểu biết. Văn học đã từng đặt niềm tin vào hình ảnh để thay thế cho trí tưởng tượng, hay dựa vào biểu tượng và ngôn từ để thay thế cho trí khôn phán đoán và hoạt động tư duy. Hoạt động tiếp nhận văn học của người đọc trong quá trình lịch sử đều có tính chất công cộng. Hoạt động này phụ thuộc vào công chúng bao gồm các loại bạn đọc. Đó là bạn đọc giả định mang tính tâm lý, bạn đọc thực tế mang tính xã hội và bạn đọc tinh hoa mang tính mỹ học.

Số phận của tác phẩm văn học không bị quyết định bởi những dụng ý và thiên hướng cá nhân mà phải được xem xét theo những chuẩn mực đã được chấp nhận trong môi trường xã hội tương ứng.

Loại bạn đọc giả định sẽ cung cấp cái nhìn về phương diện mô hình nghệ thuật được thừa nhận qua hứng thú, thị hiếu, nhu cầu, lý tưởng thẩm mỹ để xác định giá trị thời đại lịch sử của văn học.

Những người đọc thực tế sẽ là người phát ngôn tin cậy về nội dung nhân sinh và chân lý đời sống. Lớp người đọc tinh hoa, người đọc có văn hóa và chuyên ngành bao gồm nhà văn, nhà lý luận, nghiên cứu, phê bình văn học, những trí thức, giáo viên văn học, học sinh sinh viên sẽ đánh giá chiều sâu nghệ thuật và những hình thức sáng tạo nghệ thuật có ý nghĩa, đem lại sức sống lâu dài và tiềm năng sáng tạo cho văn học.

Văn học sống trong cộng đồng xã hội luôn chiếm lĩnh con người để thăm dò sự trưởng thành, phát triển của nó rồi lại trả con người vào dòng đời cuộn xiết để nó lớn lên những tầm thước khác. Có thể nói văn học đánh giá kích cỡ sự lắng kết trong cái dữ dội mà chân thật của con người trong những biểu hiện đang chuyển hóa của nó mà ta gọi là sự bí ẩn sinh tồn của nhân loại.

15. XII 1998
N.T.H
(124/06-99)



 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • HÀ VĂN LƯỠNG1. Ivan Bunhin (1870-1953) là một nhà văn xuôi Nga nổi tiếng của thế kỷ XX. Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của ông trải qua những bước thăng trầm gắn với nhiều biến động dữ dội mang tính chất thời đại của nước Nga vào những năm cuối thế kỷ XIX và mấy chục năm đầu thế kỷ XX.

  • LÊ THÀNH NGHỊCâu hỏi “ta là ai?”, “ta vì ai” nổi tiếng của Chế Lan Viên tưởng đã tìm ra câu trả lời có chứa hạt nhân hợp lý của thời đại trong thơ chống Mỹ đã không còn đủ sức ôm chứa trong thời kì mới, khi nhu cầu xã hội và cá nhân đã làm thức tỉnh cái tôi trữ tình của người làm thơ. Nhu cầu xã hội thường là những gì bức thiết nhất của thực tại, do thực tại yêu cầu. Chẳng hạn, thời chống Mỹ đó là độc lập tự do của dân tộc. Tất cả những hoạt động tinh thần, trong đó có sáng tác thơ văn, nếu nằm ngoài “sự bức thiết thường nhật” này không phù hợp, không được đón nhận... và vì thế không thể phát triển. Kể từ sau năm 1975, đặc biệt là sau 1986, với chủ trương đổi mới, trong xã hội ta, nhu cầu bức thiết nhất, theo chúng tôi là khát vọng dân chủ.

  • LÝ TOÀN THẮNG“Văn xuôi về một vùng thơ” là một thể nghiệm thành công của Chế Lan Viên trong “Ánh sáng và phù sa”, về lối thơ tự do, mở rộng từ thấp lên cao - từ đơn vị cấu thành nhỏ nhất là Bước thơ, đến Câu thơ, rồi Đoạn thơ, và cuối cùng là cả Bài thơ.

  • INRASARA1. Đó là thế hệ thơ có một định phận kì lạ. Người ta vội đặt cho nó cái tên: thế hệ gạch nối, thế hệ đệm. Và bao nhiêu hạn từ phái sinh nhợt nhạt khác.Đất nước mở cửa, đổi mới, khi văn nghệ được cởi trói, nhà thơ thế hệ mới làm gì để khởi sự cuộc viết? Cụ thể hơn, họ viết thế nào?

  • VÕ VĨNH KHUYẾN Tiểu luận nhằm tìm hiểu thành tựu thơ ca trong khoảng 16 tháng giữa 2 cột mốc lịch sử (19.8.1945 - 19.12.1946). Bởi khi phân chia giai đoạn văn học nói chung (thơ ca nói riêng) trong tiến trình lịch sử văn học, các công trình nghiên cứu, các giáo trình ở bậc Đại học - Cao đẳng và sách giáo khoa trung học phổ thông hiện hành, không đặt vấn đề nghiên cứu thơ ca (cũng như văn học) nói riêng trong thời gian này. Với một tiêu đề chung "Văn học kháng chiến chống Pháp 1946 - 1954". Đây là nguyên do nhiều sinh viên không biết đến một bộ phận văn học, trong những năm đầu sau cách mạng.

  • HỒ THẾ HÀ1. Diễn đàn thơ được tổ chức trên đất Huế lần này gắn với chương trình hoạt động của lễ hội Festival lần thứ 3, tự nó đã thông tin với chúng ta một nội dung, tính chất và ý nghĩa riêng. Đây thực sự là ngày hội của thơ ca. Đã là ngày hội thì có nhiều người tham gia và tham dự; có diễn giả và thính giả; có nhiều tiếng nói, nhiều tấm lòng, nhiều quan niệm trên tinh thần dân chủ, lấy việc coi trọng cái hay, cái đẹp, cái giá trị của nghệ thuật làm tiêu chí thưởng thức, trao đổi và tranh luận. Chính điều đó sẽ làm cho không khí ngày hội thơ - Festival thơ sẽ đông vui, phong phú, dân chủ và có nhiều hoà âm đồng vọng mang tính học thuật và mỹ học mới mẻ như P.Valéry đã từng nói: Thơ là ngày hội của lý trí (La poésie est une fête de l'intellect).

  • THẠCH QUỲThơ đi với loài người từ thủa hồng hoang đến nay, bỗng dưng ở thời chúng ta nứt nẩy ra một cây hỏi kỳ dị là thơ tồn tại hay không tồn tại? Không phải là sự sống đánh mất thơ mà là sự cùn mòn của 5 giác quan nhận thức, 6 giác quan cảm nhận sự sống đang dần dà đánh mất nó. Như rừng hết cây, như suối cạn nước, hồn người đối diện với sự cạn kiệt của chính nó do đó nó phải đối diện với thơ.

  • NGUYỄN VĨNH NGUYÊNNhững năm gần đây, người ta tranh luận, ồn ào, khua chiêng gõ mõ về việc làm mới văn chương. Nhất là trong thơ. Nhưng cái mới đâu chẳng thấy, chỉ thấy sau những cuộc tranh luận toé lửa rốt cục vẫn là: hãy đợi đấy, lúc nào đó, sẽ... cãi tiếp...

  • TRẦN VĂN LÝAi sản xuất lốp cứ sản xuất lốp. Ai làm vỏ cứ làm vỏ. Ai làm gầm cứ làm gầm. Nơi nào sản xuất máy cứ sản xuất máy. Xong tất cả được chở đến một nơi để lắp ráp thành chiếc ô tô. Sự chuyên môn hoá đó trong dây chuyền sản xuất ở châu Âu thế kỷ trước (thế kỷ 20) đã khiến cho nhiều người mơ tưởng rằng: Có thể "sản xuất" được thơ và sự "mơ tưởng" ấy vẫn mãi mãi chỉ là mơ tưởng mà thôi!

  • HOÀNG VŨ THUẬTChúng ta đã có nhiều công trình, trang viết đánh giá nhận định thơ miền Trung ngót thế kỷ qua, một vùng thơ gắn với sinh mệnh một vùng đất mà dấu ấn lịch sử luôn bùng nổ những sự kiện bất ngờ. Một vùng đất đẫm máu và nước mắt, hằn lên vầng trán con người nếp nhăn của nỗi lo toan chạy dọc thế kỷ. Thơ nảy sinh từ đó.

  • BÙI QUANG TUYẾNThơ mới là một hiện tượng nổi bật của văn học Việt Nam nói chung và thơ ca nói riêng trong thế kỷ XX. Nó vừa ra đời đã nhanh chóng khẳng định vị trí xứng dáng trong nền văn học dân tộc với các "hoàng tử thơ": Thế Lữ , Xuân Diệu, Huy Cận, Lưu Trọng Lư, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử v.v... Đồng thời, Thơ mới là một hiện tượng thơ ca gây rất nhiều ý kiến khác nhau trong giới phê bình, nghiên cứu và độc giả theo từng thời kỳ lịch sử xã hội, cho đến bây giờ việc đánh giá vẫn còn đặt ra sôi nổi. Với phạm vi bài viết này, chúng tôi điểm lại những khái niệm về Thơ mới và sự đổi mới nghệ thuật thơ của các bậc thầy đi trước và tìm câu trả lời cho là hợp lý trong bao nhiêu ý kiến trái ngược nhau.

  • MẠNH LÊ Thơ ca hiện đại Việt Nam thế kỷ XX đã thu được những thành tựu to lớn đóng góp vào sự phát triển của lịch sử thơ ca dân tộc. Đặc biệt từ ngay sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời thay thế chế độ phong kiến thực dân hơn trăm năm đô hộ nước ta cùng với khí thế cách mạng kháng chiến cứu nước theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh tháng 12 năm 1946 đã thổi vào đời sống văn học một luồng sinh khí mới để từ đó thơ ca hiện đại Việt Nam mang một âm hưởng mới, một màu sắc mới.

  • NGUYỄN KHẮC THẠCHNếu gọi Huế Thơ với tư cách đối tượng thẩm mĩ thì chủ thể thẩm mĩ của nó trước hết và sau cùng vẫn là sự hoá sinh Thơ Huế. Đương nhiên, không hẳn chỉ có Thơ Huế mới là chủ thể thẩm mĩ của Huế Thơ và cũng đương nhiên không hẳn chỉ có Huế Thơ mới là đối tượng thẩm mĩ của Thơ Huế. Huế Thơ và Thơ Huế vẫn là hai phạm trù độc lập trong chừng mực nào đó và có khi cả hai đều trở thành đối tượng thẩm mĩ của một đối tượng khác.

  • ĐỖ LAI THÚYThanh sơn tự tiếu đầu tương hạc                                  Nguyễn KhuyếnNói đến Dương Khuê là nói đến hát nói. Và nói đến hát nói, thì Hồng Hồng, Tuyết Tuyết làm tôi thích hơn cả. Đấy không chỉ là một mẫu mực của thể loại, mà còn làm một không gian thẩm mỹ nhiều chiều đủ cho những phiêu lưu của cái đọc.

  • NGUYỄN NGỌC THIỆNHải Triều tên thật là Nguyễn Khoa Văn, sinh năm 1908 trong một gia đình Nho học, khoa bảng. Năm 20 tuổi, trở thành đảng viên trẻ của Tân Việt cách mạng Đảng, Nguyễn Khoa Văn bắt đầu cầm bút viết báo với bút danh Nam Xích Tử (Chàng trai đỏ). Điều này đã khiến trong lần gặp gỡ đầu tiên, người trai có "thân hình bé nhỏ và cử chỉ nhanh nhẹn theo kiểu chim chích" (1) ấy đã gây được cảm tình nồng hậu của Trần Huy Liệu- chủ nhiệm Nam Cường thư xã, người bạn cùng trang lứa tuy vừa mới quen biết, nhưng đã chung chí hướng tìm đường giải phóng cho dân tộc, tự do cho đất nước.

  • TÔ VĨNH HÀ Huế đang trở lạnh với "mưa vẫn mưa bay" giăng mờ như hư ảo những gương mặt người xuôi ngược trên con đường tôi đi. Tôi giật mình vì một tà áo trắng vừa trôi qua. Dáng đi êm nhẹ với cánh dù mỏng manh như hơi nghiêng xuống cùng nỗi cô đơn. Những nhọc nhằn của tuổi mơ chưa đến nỗi làm bờ vai trĩu mệt nhưng cũng đủ tạo nên một "giọt chiều trên lá(1), cam chịu và chờ đợi nỗi niềm nào đó hiu hắt như những hạt mưa...

  • NGUYỄN HỒNG DŨNG1. Một cuộc đời lặng lẽ và những truyện ngắn nổi danhO' Henry, tên thật là William Sydney Porter, được đánh giá là người viết truyện ngắn xuất sắc nhất của nước Mỹ những năm đầu thế kỷ XX. Ông sinh tại Greenboro, tiểu bang North Carolina vào năm 1862. Năm 15 tuổi (1877), ông thôi học và vào làm việc trong một hiệu thuốc tây. Vào tuổi hai mươi, ông bị đau nặng và sức khoẻ sa sút nên đã đến dưỡng sức ở một nông trại tại tiểu bang Texas. Ông đã sống ở đấy hai năm, đã làm quen với nhiều người và hiểu rất rõ tính cách miền Tây. Sau này, ông đã kể về họ rất sinh động trong tập truyện ngắn có tựa đề đầy xúc cảm Trái tim miền Tây.

  • MAI KHẮC ỨNGCó thể sau khi dẹp được loạn 12 sứ quân, Đinh Tiên Hoàng (968- 979) thống nhất lãnh thổ và lên ngôi hoàng đế, đã đặt được cơ sở ban đầu và xác định chủ quyền Đại Cồ Việt lên tận miền biên cương Tây Bắc vốn là địa bàn chịu ảnh hưởng Kiểu Công Hãn. Trên cơ sở 10 đạo thời Đinh nhà vua Lý Thái Tổ (1010- 1028) mới đổi thành 24 phủ, lộ. Nguyễn Trãi viết Dư địa chí (thế kỷ XV) vẫn giữ nguyên tên gọi đạo Lâm Tây. Tức vùng Tây- Bắc ngày nay.

  • TRẦN ANH VINHÂm vang của những sự kiện xẩy ra năm Ất Dậu (1885) không những vẫn còn đọng trong tâm trí người dân núi Ngự mà còn được ghi lại trong một số tác phẩm. Bài vè “Thất thủ Kinh đô” do cụ Mới đi kể rong hàng mấy chục năm ròng là một tác phẩm văn học dân gian, được nhiều người biết và ngưỡng mộ. Riêng Phan Bội Châu có viết hai bài:+ Kỷ niệm ngày 23 tháng Năm ở Huế (Thơ)+ Văn tế cô hồn ngày 23 tháng Năm ở Kinh thành Huế.

  • HOÀNG CÔNG KHANHCó một thực tế: số các nhà văn cổ kim đông tây viết tiểu thuyết lịch sử không nhiều. Ở Việt Nam càng ít. Theo ý riêng tôi nguyên nhân thì nhiều, nhưng cơ bản là nhà văn viết loại này phải đồng thời là nhà sử học, chí ít là có kiến thức sâu rộng về lịch sử. Cũng nhiều trường hợp người viết có đủ vốn liếng cả hai mặt ấy, nhưng hoặc ngại mất nhiều công sức để đọc hàng chục bộ chính sử, phải sưu tầm, dã ngoại, nghiên cứu, đối chiếu, chọn lọc hoặc đơn giản là chưa, thậm chí không quan tâm đến lịch sử.