Nhà văn và môi sinh sáng tạo

15:27 03/12/2009
NGUYỄN THANH HÙNGVăn học là cuộc sống. Quan niệm như vậy là chẳng cần phải nói gì thêm cho sâu sắc để rồi cứ sống, cứ viết, cứ đọc và xa dần mãi bản thân văn học.

(Ảnh: Internet)

Đã nói văn học là cuộc sống tức là thừa nhận khát vọng nhòm ngó tới sự sống và con người bên ngoài không gian và thời gian trái đất. Nơi ấy phải chăng cũng có một giống người.Con người ở những hệ tinh vân này có phải là sự "lại giống" của "cây sậy biết suy nghĩ" (Patxcan) là "động vật bệnh hoạn" (Uramunô), là "con vật phù hợp" (Musin) như người ta quan niệm?

Từ mông lung đến mênh mông, văn học lại tự cho mình là khoa học về con người xã hội, là sự tiếp cận, phân tích, cắt nghĩa, đánh giá con người bằng bộ đồ giải phẫu ngôn ngữ nghệ thuật. Đó cũng chưa phải là văn học thứ thiệt, văn học sống, với tư cách là sản phẩm của sáng tạo mà là văn học quy chuẩn, văn học trên bàn mổ lý luận. Đặc trưng "nhân học" của văn học dù được dàn đều trên những bình diện sinh vật, tâm lý, xã hội, thẩm mỹ... thì cũng vẫn chưa làm cho văn học sáng tỏ hơn. Hình tượng văn học được đúc kết bằng những bình diện trên của con người dường như vẫn còn thiếu một cái gì sâu sa và cao đẹp của văn hóa người.

Có văn hóa thì mới được tự do. Có tự do mới có quyền lựa chọn. Lựa chọn là quyền năng lớn lao và đích thực của con người có ý thức. Tự do đó thể hiện trong lẽ xuất sử của người xưa. Tức là chọn một lối sống, một cuộc sống, một giá trị sống cho mình để thực hiện sự giải thoát lớn cũng chỉ bằng hai cách đi và về. "Đi" thì sẽ gặp, gặp nhân quần xã hội và lặn ngụp trong biển đời vây hãm. "Về" là gặp lại chốn giao thoa giữa thế sự và vĩnh hằng. Nguyễn Khuyến là thế. Ông có nhằm giữ lại họ tiết thu Việt Nam với làng cảnh u nhàn đâu! Ông chỉ coi tâm hồn là một trạng thái của phong cảnh. Thân phận ông ở trong muôn loài.Tâm sự ông ở trên muôn loài. Ba bài thơ thu của ông (Thu vịnh, Thu điếu, Thu ẩm) chắc gì đã là tâm cảnh, mà hơn thế, ở trên cảnh. Nếu là trong cảnh thì sẽ thấy sự trong trẻo, thanh tịnh và u hoài. Suy diễn thêm, sẽ là "lòng yêu nước mờ nhạt"! với "lý do kiệt xuất "ngoài văn học là ca ngợi vẻ đẹp thiên nhiên của quê hương là biểu hiện của lòng yêu nước.

Nếu nhìn ba bài thơ vượt lên trên cảnh sẽ thấy một mã (code) chung, là cái bé xíu mảnh mai, là cái quá cao, quá thấp, là quá nhanh và quá chậm, quá lác đác xiêu dạt, là quá hòa lẫn, quá tự nhiên đến hững hờ. Sự quá ấy từ chối khả năng bắt ghi của thực tồn cảm giác, là tự động hao tán thành tê liệt. Sự vô cảm ấy được khách thể hóa từ trái tim thổn thức âu lo đã dựng thành những hình tượng thơ cứng đơ, côi cút giữa đời. Đây sẽ là cơ sở nhân bản, là lý do đời để ông thấy tiếc thương những vùng "lưu không" giữa khát vọng và "tuổi cao, phận bạc, chí khí thấp", giữa cái không đâu nhỡn tiền đòi sa nước mắt. (Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe). Nguyễn Khuyến rất buồn vì cứ thấy mình không ra sao dù chưa nói hẳn ra là "đồ vô tích sự" của kiếp sống thừa. Thẹn với Đào Tiềm cũng là từ tâm sự ấy. Nỗi sợ suốt đời quấy sôi nhà thơ. Ông cầu xin những hồn vía cứng cáp, thản nhiên hơn.(Chú Táo bên đình sang với tớ. Ông nghè xóm chợ lại cùng ta) Nhân cách làm người ở Nguyễn Khuyến biểu hiện ở những điều tinh vi này: biết thẹn, biết tiếc nuối, biết sợ. Thanh minh cho sự trong sạch của mình trước danh lợi và cường quyền bằng câu thơ di chúc. (Rằng quan nhà Nguyễn cáo về đã lâu). Sự vần xoay của tạo hóa làm lộ ra cái vô thường và lẽ biến dịch thành cái xa, cái mất như một mặt của hiện thực mà con người không thể với tới, cũng là nỗi sợ ám ảnh vào cái nhìn tiêu tán:

            "Một lá về đâu xa thăm thẳm
            Nghìn làng trông xuống bé con con"

Vì thế xuất hay sử, đi hay về trong thơ Nguyễn Khuyến vẫn tồn tại một cái tôi phủ định, mong muốn vượt qua giới hạn bản thân mình. "Tựa gối ôm cầu lâu chẳng được" là sự phủ định một cách sống đã chọn. Dù là ôm cầu câu hờ hững nhưng cũng không thể cứ kéo dài cung cách ấy. Đó là bi kịch không thể quên đời và cũng là không thể quên mình, quên cái tôi, cái bản ngã chân thật nhất ở nhà thơ.

Như vậy đời sống và con người mà văn học xem là nội dung phản ánh chỉ mới là chất sống, là sinh khí của nó mà thôi. Không bao giờ nhà văn lại phản ánh cái không phải là mình. Đã từng và mãi mãi văn học chỉ có thể phản ánh cuộc sống sâu sắc thông qua cái tôi phong phú vô tận như là sự tiềm sinh (Anabiosis) của con người. Văn học muốn trở về đời sống và cải tạo hiện thực trước tiên phải khám phá những thực thể vô hình tàng ẩn ở những chỗ giáp ranh hiển sinh và tiềm sinh. Ở Việt Nam, Nam Cao đã phát hiện ra được tiềm năng con người ở những chỗ "lưu không" như thế trong "Chí Phèo" và "Đôi mắt". Tác phẩm nào chưa giải quyết được vấn đề hiện hữu của chính tác giả, của cái tôi đích thực nhất trong một con người là "cái có thể" do lịch sử của chính người đó tạo lập nên thì vẫn bị cầm tù trong "chủ nghĩa nhân văn lạc quan cổ điển" và trong những giấc mơ mãn nguyện cùng sự tích cực vô lo làm hoang vắng thế giới con người.

Văn học hiện đại đang đứng trước một thế giới thường xuyên lỗi nhịp. Nói trắng ra, đó là những bi kịch nội tâm, những hài kịch xã hội và những thảm kịch vũ trụ trong luật tương tác của nó cần được văn học khám phá, phối trí và soi sáng thêm. Văn học phải kiên nhẫn hướng vào nơi trí tuệ bắt gặp cái hư không và sự thuần khiết mà chứa đầy năng lượng tư tưởng. Đó là nơi đụng độ giữa quỷ và người, giữa kinh nghiệm hàng ngày và vĩnh cửu. Tất cả những cái đó chưa có sẵn, chưa một lần diễn ra. Nó là "cái có thể", là "sự tiềm sinh" trong đời sống con người để từ con người lo âu trở thành con người tự chữa lành mọi vết thương cho mình mà văn học cần khám phá và biểu hiện.

Nói văn học là nghệ thuật của ngôn từ rất dễ sa vào "ngôn ngữ luận" và "hình thức chủ nghĩa". Một khi trí tuệ lý thuyết chỉ mới xem ngôn từ như chất liệu và phương tiện nghệ thuật của văn chương. Thử tự hỏi từ ngữ tạo ra ý nghĩa hay ý tưởng tạo ra ngôn từ? Chưa có được minh kiến nhưng để lấp chỗ trống và thực lòng lảng tránh ta phải lưu ý bình diện diễn đạt của văn học thông qua phương tiện, hình thức ngôn ngữ đồng thời nhấn mạnh đến bình diện cấu trúc của tác phẩm bao gồm chức năng giao tiếp và lý thuyết đọc văn. Thực chất cấu trúc của văn bản nghệ thuật là cấu trúc nhân tạo, cấu trúc ước lượng (structure évaluative). Nó được sản sinh bởi sự quy chiếu của kinh nghiệm và hành động dự kiến trong một hệ thống khép kín.

Hiệu quả cấu trúc tác phẩm qua chức năng giao tiếp chỉ có được nhờ mối liên hệ quen thuộc và thông thường của tình huống xảy ra trong đời sống. Cái đó không gì khác hơn là "âm sắc cơ bản của sự tồn tại cái tôi nhà văn". Đó là cảm xúc mãnh liệt và trung thực nhất được người đọc khám phá và hiểu ra. Không có một văn bản thơ ca nào tồn tại tự nó. Phải qua giao tiếp để độc giả đưa lại hiện thực cho bài thơ. Đọc văn thơ là để nhìn thấy đường thẳng của sự diễn đạt văn học. Còn lại là phải "nghe thơ" để nhận ra cái "kiến trúc âm thành tình cảm", cái cảm xúc người làm thành dưỡng chất nuôi sống bài thơ và sự đối thoại giữa nhà văn với người đọc. Lời nói trong tác phẩm là "lời truyền miệng" với biết bao ám tín tồn tại ngoài ngôn ngữ. Chính lời truyền miệng liên kết những nhà thơ của các nền văn minh lại để nhiều người cảm nhận được năng lực người có mặt trong sự nói năng. Đây là đường cong uyển chuyển, hài hòa phổ vào ngôn ngữ làm cho nó có độ căng nở và thu kết bởi sự hấp dẫn đa chiều, bởi sự nhường nghĩa, chuyển nghĩa cho nhau. Ở đây ta thấy cái lý tồn tại xác đáng của cấu trúc tác phẩm văn học. Đúng như nhà thơ Anh T.Êliôt viết "Ngôn từ và trật tự là một cặp nhảy hoàn mỹ chẳng chịu rời nhau nửa bước".

Nghe thơ tức là đọc thơ bằng tai, một bộ vi xử lý nhậy cảm của con người (Đã nghe rét mướt luồn trong gió; Anh nghe thu dứt lá gọi đời đi...) Nghe thơ qua đọc để biết, để hiểu bề mặt sự kiện. Tâm trí người nghe rõi theo câu nói sẽ tiếp xúc "cận thành" với sức lôi cuốn vào đó của lời nói, kích thích sự nồng nàn những rung cảm, làm lan tỏa ánh sáng vỗ về, giáo hóa nơi đáy sâu tâm hồn đang nghe ngóng. Ngôn từ văn học né tránh sự thuyết minh duy lý và hiện hữu dưới hình thức thật mong manh. Nó không tồn tại biệt lập mà như một yếu tố tiếp sức đi theo sự chuyển hóa hình tượng nghệ thuật để có những khả năng dự đoán khi đọc nó. Tiếng nói tự nó chỉ là âm thanh. Nó chỉ bắt đầu có nghĩa khi con người lồng ý thức, tâm hồn minh vào nó, mang lại những tiền đề hội giao với người khác. Trong lời truyền miệng thơ văn có dấu vết quan hệ với người xưa và là sự tái tạo cách sống của con người hiện tại. Muốn ngôn ngữ văn học hoàn thiện phải để nó thấm nhuần nhân cách con người bằng những ấn tượng xúc cảm trái tim.

Rainer Rilke (Rainơ Rinke - nhà văn Áo 1875-1926) rất sợ sự minh bạch không hương sắc trần gian của ngôn từ. "Tôi sợ hãi lời nói của loài người. Họ nói cái gì cũng rõ ràng minh bạch quá". Còn Phùng Khắc Bắc thì bối rối: "Ký hiệu của thơ tôi là sự minh bạch trong rắc rối đến khôn cùng". Sự minh bạch ngây thơ ngăn cản trí tưởng tượng về sức chứa đựng, sức tỏa chiếu và xúc cảm nôn nao mà mỗi từ gợi lên như hơi thở. Không có lời nói nào đơn thuần chỉ là lời nói. Có khi đó là lời nguyền, lời chúc phúc, là vẻ đẹp, là nỗi đau, là hoa, là rác, là dối trá, là chân thành, là ánh sáng... cốt để cứu thế gian. Tác phẩm văn học thường chứa trong mình dòng sông ngôn từ và mạch ngầm văn bản. Cả hai chi lưu ngôn từ ấy đẩy nhà văn đi vào một thế giới khác, được tạo nên bởi trí tưởng tượng hư ảo mà trí nhớ kết hợp với liên tưởng để con người lặn sâu vào những bí ẩn của đời sống, biến đổi cái thường nhật thành giá trị đời đời.

Đã đến lúc cần tỉnh táo giải thoát nhà văn và người đọc khỏi những lối cũ đường quen của ngôn từ đã làm khô cằn trí tưởng tượng, sự rung cảm và tư tưởng nhân bản trong sáng tạo và thưởng thức văn học.

Dùng ngôn từ để khám phá ra một thế giới chưa từng có trong văn học đã là mối quan tâm của nghệ sỹ nhưng muốn tái tạo ngôn ngữ văn bản nghệ thuật thành tác phẩm văn học sống động trong bạn đọc lại cần "một cộng đồng lý giải" tác phẩm, để phát hiện đầy đủ ý nghĩa tàng ẩn của sự thật đời sống. Ngôn ngữ văn học thường hướng tới một cái khác. Nó là phương tiện để tra vấn cái chưa từng biết. Nó đem lại cho cái chưa từng biết điều kiện sống qua âm thanh, tức là một hình thức giả tưởng của đời sống. Hình thức này có tạo ra được khả năng lĩnh hội nghệ thuật văn học của con người hay không lại là vấn đề của tài năng nghệ sỹ.

Tác phẩm văn học không còn là một vũ trụ thuận lý, không còn là nơi ẩn cư êm ả của người đọc. Tác phẩm văn học chống lại sự giải thích tác phẩm bằng ngôn ngữ sáo lười mà mở rộng khả năng đồng hóa bằng hoạt động của con người. Bởi vì "nói ắt là không trúng" như Thiều gia quan niệm. Tác phẩm văn học là một xã hội trong xã hội. Ở đó người ta thể hiện một cách sống, những nỗi niềm xúc động và luôn ngó chừng truyền thống đã huyền thoại hóa để quay về với nguồn suối đầy sinh khí đời sống đã được kinh nghiệm trực giác tài tình bao quát. Đó là phong cách tư duy văn học hướng về cụ thể, muốn tham dự vào cuộc sống chứ không bị ngôn ngữ diễu cợt hay ngắm nhìn cuộc sống từ xa.

Đón trước và đi tắt mà vi phạm quy luật của tiến trình thực tại chỉ là thói vay mượn trí óc, khuyến khích sự chuyển giao tri thức và phương pháp nhàn nhã mà không hiểu biết. Văn học đã từng đặt niềm tin vào hình ảnh để thay thế cho trí tưởng tượng, hay dựa vào biểu tượng và ngôn từ để thay thế cho trí khôn phán đoán và hoạt động tư duy. Hoạt động tiếp nhận văn học của người đọc trong quá trình lịch sử đều có tính chất công cộng. Hoạt động này phụ thuộc vào công chúng bao gồm các loại bạn đọc. Đó là bạn đọc giả định mang tính tâm lý, bạn đọc thực tế mang tính xã hội và bạn đọc tinh hoa mang tính mỹ học.

Số phận của tác phẩm văn học không bị quyết định bởi những dụng ý và thiên hướng cá nhân mà phải được xem xét theo những chuẩn mực đã được chấp nhận trong môi trường xã hội tương ứng.

Loại bạn đọc giả định sẽ cung cấp cái nhìn về phương diện mô hình nghệ thuật được thừa nhận qua hứng thú, thị hiếu, nhu cầu, lý tưởng thẩm mỹ để xác định giá trị thời đại lịch sử của văn học.

Những người đọc thực tế sẽ là người phát ngôn tin cậy về nội dung nhân sinh và chân lý đời sống. Lớp người đọc tinh hoa, người đọc có văn hóa và chuyên ngành bao gồm nhà văn, nhà lý luận, nghiên cứu, phê bình văn học, những trí thức, giáo viên văn học, học sinh sinh viên sẽ đánh giá chiều sâu nghệ thuật và những hình thức sáng tạo nghệ thuật có ý nghĩa, đem lại sức sống lâu dài và tiềm năng sáng tạo cho văn học.

Văn học sống trong cộng đồng xã hội luôn chiếm lĩnh con người để thăm dò sự trưởng thành, phát triển của nó rồi lại trả con người vào dòng đời cuộn xiết để nó lớn lên những tầm thước khác. Có thể nói văn học đánh giá kích cỡ sự lắng kết trong cái dữ dội mà chân thật của con người trong những biểu hiện đang chuyển hóa của nó mà ta gọi là sự bí ẩn sinh tồn của nhân loại.

15. XII 1998
N.T.H
(124/06-99)



 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN THI VÂN Kỷ niệm 150 năm ngày sinh Tagore Trong quá trình tìm kiếm các bản dịch tiếng Hà Lan của đại thi hào Rabindranath Tagore (1861-1941) trong những năm làm việc tại Hà Lan, nghiên cứu gia Liesbeth Meyer đã phát hiện một số thư trao đổi giữa Tagore với Frederik van Eeden (1860-1932) một trong những người Hà Lan đầu tiên đã giới thiệu thơ Tagore đến với xứ xở hoa tuy líp.

  • PHẠM PHÚ PHONG Đối với sự tồn tại và phát triển của một nền văn học không thể không kể đến đội ngũ những người sáng tác trẻ. Đó là lực lượng sung sức, giàu nhiệt tình và báo hiệu những năng lực mới cần được liên tục bổ sung.

  • AN-ĐRÂY ĐÊ-MEN-CHI-ÉP(Phát biểu của nhà thơ An-đrây Đê-men-chi-ép - Tổng biên tập Tạp chí “Tuổi trẻ” trong cuộc hội thảo về thơ nhân Đại hội các nhà văn trẻ Liên Xô lần thứ VIII.)

  • PHAN TUẤN ANH“Ôi, có lý và phi lý lẫn lộn vào nhau, lý trí trong điên loạn” [6,39].

  • TRẦN THIỆN ĐẠONếu như Viện Hàn lâm Thụy Điển, đầu tháng mười năm ngoái, rốt cuộc đã trao giải Nobel 2010 cho nhà văn Pêru Mario Vargas Llosa hụt biết bao nhiêu lần trước đó(1), thì nay, Viện không còn có thể vớt vát được nữa.

  • PHONG LÊ Trở ngược lại buổi đầu của nền văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa trên phạm vi toàn thế giới, ta đều thấy lực lượng viết của văn học “vô sản - cách mạng” - như tên gọi ở giai đoạn hình thành của nó, cơ bản được cấu tạo từ hai nguồn.

  • Lời người dịch: Nhà thơ Slam Lisa Martinovic đồng ý cho chúng tôi chuyển dịch bài viết ngắn này, khởi đầu giới thiệu với bạn đọc một phong trào thơ trình diễn Mỹ. Đây là một phong trào thơ được nhà thơ Marc Smith sáng lập tại Chicago.

  • TRẦN KIÊM ĐOÀNMấy tháng trước ngày cơn đại sóng thần - grand tsunami - vỡ trào quét vào vùng biển Ấn Độ vào năm 2004, tàn phá vùng duyên hải của 12 nước ven biển và giết hại 230 nghìn mạng sống, người ta chú ý đến hiện tượng thiên di của các loài động vật.

  • NGUYỄN QUÂNLà một người vẽ mà lại yêu thơ, khi đọc liên tưởng của tôi trước hết là liên tưởng của con mắt. Cái chúng ta quen gọi là hình ảnh, hình tượng thơ … với tôi trước hết là cái có thể nhìn thấy trong đầu, khi đọc thơ.

  • LÊ QUANG THÁIVăn khảo luận ít khi viết năm Mão như văn nói thông thường, chỉ vì chưa định rõ năm nào trong các năm: Ất Mão, Đinh Mão, Kỷ Mão, Tân Mão, Quý Mão. Cho nên, không thể dịch ra tiếng Anh: “Year of the cat” một cách vô tư lự được. Viết quảng cáo lớn chữ “Xuân Tân Mão, 2011” mà lại dịch một cách tùy tiện như trên hẳn là chưa ổn.

  • NGUYỄN DƯ…Bốn cột lang, nha cắm để chồng/ Ả thì đánh cái, ả còn ngong/ Tế hậu thổ khom khom cật,/ Vái hoàng thiên ngửa ngửa lòng/ Tám bức quần hồng bay phới phới,/ Hai hàng chân ngọc đứng song song./ Chơi xuân hết tấc xuân dường ấy,/ Cột nhổ đem về để lỗ không.                                 (Cây đánh đu, Hồng Đức quốc âm thi tập)…

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNGTôi mới đọc Xuân Quỳnh gần đây: với tôi, thơ chị ở quá xa. Nhưng càng đọc càng gần lại. Vì chị thường nói về thời gian: Bao mùa thu hoa vẫn vàng như thế/ Chỉ em là đã khác với em xưa

  • LƯƠNG ANMiên Thẩm là một nhà thơ hoàng tộc có tiếng giữa thế kỷ 19. Qua thơ văn ông, chúng ta gặp một con người, tuy bị giai cấp xuất thân hạn chế rất nhiều, song vẫn biểu hiện một ý thức thương dân và một tinh thần lo lắng cho vận mệnh đất nước vốn không phải phổ biến trong tầng lớp nhà nho - trí thức phong kiến lúc bấy giờ.

  • PHONG LÊGiá Bác không đi Trung Quốc? Hoặc giá Bác không bị bọn Tưởng bắt giam? Hoặc nữa, đã có tập thơ, nhưng năm tháng, chiến tranh, cùng bao nhiêu sự cố khiến cho tập thơ không còn về được Viện bảo tàng cách mạng?

  • L.T.S: Bài viết của Trần Đình Sử về đóng góp của thơ Tố Hữu trong việc phát triển thể tài thơ chính trị và khuynh hướng sử thi trong biểu hiện không phải không có nhiều chỗ phải bàn cãi. Tuy nhiên tạp chí vẫn coi đây là một cách tiếp cận mới để khám phá nguồn thơ phong phú của một trong những nhà thơ lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại. Xin giới thiệu bài tiểu luận này để bạn đọc cùng suy nghĩ trao đổi.

  • ĐÔNG HÀVăn chương bắt nguồn từ cuộc sống. Với Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng vậy, mỗi trang viết của anh là một sự khởi nguyên rất chân thật. Không thiên về lối miêu tả nhưng bằng cặp mắt tinh tế sắc sảo của mình, Hoàng Phủ đã “nói” về cuộc sống từ những tinh chất của thiên nhiên và con người Huế đọng lại dưới ngòi bút của anh.

  • VÊ-RA CU-TÊ-SƠ-CHI-CÔ-VAVê-ra Cu-tê-sơ-chi-cô-va là tiến sĩ ngữ văn, giáo sư nghiên cứu ở Học viện Gorki về văn học thế giới thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô.

  • NGUYỄN HOÀN Nhạc Trịnh Công Sơn lâu nay đã “chinh phục hàng triệu con tim, không chỉ ở trong nước, mà ở cả bên ngoài biên giới nữa” (Văn Cao).

  • PHAN NGỌC1- Trong việc nghiên cứu Truyện Kiều, xu hướng xưa nay là đưa ra những nhận xét căn cứ vào cảm thụ thẩm mỹ của mình. Những nhận xét ấy thường là rất tinh tế, hấp dẫn. Nhưng vì quan điểm khảo sát là chỉ phân tích những cảm nghĩ của mình căn cứ đơn thuần vào Truyện Kiều, không áp dụng những thao tác làm việc của khoa học hiện đại, cho nên không tránh khỏi hai nhược điểm:

  • ĐẶNG TIẾNMèo là thành phần của tạo vật, không hệ thuộc loài người, không phải là sở hữu địa phương. Nói Mèo Huế là chuyện vui ngày Tết. Đất Huế, người Huế, tiếng Huế có bản sắc, biết đâu mèo Huế chẳng thừa hưởng ít nhiều phẩm chất của thổ ngơi và gia chủ?