Nhà thơ Phạm Ngọc Cảnh với con sông Cụt trăm nhớ ngàn thương

15:34 27/10/2014

Vậy là nhà thơ Phạm Ngọc Cảnh đã về cõi thiên thu giữa một sáng mùa thu Hà Nội lay phay gió mù u!...Trước khi chưa kịp được vuốt mắt, dường như đôi đồng tử của ông vẫn còn lưu giữ lại hình ảnh đau đáu về con sông Cụt quê nhà.

Nhà thơ Phạm Ngọc Cảnh (bên trái) tại nhà riêng tác giả bài viết

Đó là con sông đã tắm gội cho ông ngay cái buổi đầu đời mộc dục, đã mách bảo ông bao dự định và cho ông vay mượn hẳn tám mươi năm luân lạc giữa cõi người mà làm thơ, đóng kịch, viết lời bình khắp sân khấu thế gian:

Thi sĩ Phạm Ngọc Cảnh sinh năm Giáp Tuất (1934) tại xóm cửa Hữu , phường Tân Giang, thành phố Hà Tĩnh. Thân sinh của ông là cụ đội Chung từng đi lính khố đỏ cho Pháp, đồn trú tại thành Hà Tĩnh trước cách mạng. Mặc dầu, từ trong đồn ra xóm cửa Hữu chỉ cách mấy bước chân. Vậy mà, ngày Phạm Ngọc Cảnh sinh ra, Mẹ ông phải “vượt cạn” một mình dưới màm trời mưa lũ được coi là kinh hoàng nhất từng diễn ra trên sông Cụt xưa nay. Đó cũng là một phần lý do mà vòng thời gian năm Giáp Tuất (1994) quay lại, khi mẫu số chung thập can- địa chi của ông gặp nhau tại một điểm, ông đã  viết bài thơ: “Năm Tuất Mẹ Sinh Con” như một lời tấu sớ thả xuống dòng trôi sông Cụt, để giải bày những tháng năm hung hạn vừa đủ gặm nhấm vòng  quay về với “số mo” mà ngẫm sự đời :

Ngỡ như mẹ muốn con là Sơn Tinh năm ấy lụt/ Mẹ cõng con đi men qua cầu sông Cụt/ Rồi một đời hun hút trông theo/ Vô tích sự thằng con trai mẹ/ Năm Tuất lùi xã năm Tuất lại về/ Vô tích sự thằng con trai mẹ/ Găng cổ hát khắp rộng dài sông bể/ Câu dặm buồn năm Tuất ai nghe?

Đời thơ Phạm Ngọc Cảnh qua không biết bao sông dài, bể rộng, bao vực thẳm và truông sâu...  Luôn dõi theo từng bước chân của ông, chở che cho ông và cả trừng phạt ông là hồn thiêng con sông Cụt, con sông đã mượn lấy ngòi bút của ông để kết nối với long mạch ba miền mà tấu lên khúc hoan ca muôn thủa giữa vô thường núi sông, nhưng không bao giờ quyên sự sẻ chia, an ủi với hằng hà sa số khóc khuất của bao phận kiếp nổi trôi! Trong giàn hợp xướng vĩ thanh đó chỉ cần nhắc đến các kiệt tác: Lý Ngựa Ô Hai Vùng Đất ; Sư đoàn Cô Tấm Trong Nhà; Lục Bát Trước Nhà Thờ Họ Phạm…là quá đủ để đưa ngòi bút của ông xếp vào hạng cây đa, cây đề.

Nhà thơ Phạm Ngọc Cảnh là người anh lớn trong một gia đình nghèo đông anh chị em. Thuở thiếu thời, ông từng đi bán dạo thuốc lào, lạc luộc và kẹ kéo…khắp phố phường ở thị xã Hà Tĩnh mà ông quen gọi là “Thành Sen quê choa”... Năm Đinh Hợi (1947), trong một lần ông đi bán dạo như thế cho khán giả xem đội văn nghệ Trung đoàn 103 Bộ đội ta biểu diễn tại thị xã Hà Tĩnh. Không biết ông có mối liên quan nào từ kiếp nào với thi sĩ Hoàng Cầm? Nhưng ngay lần đầu tiên bắt gặp chị văn công má ửng đỏ biểu diễn trên sân khấu, ông đã đứng ngẩn người, đến nỗi cả mẹt lạc tuột khỏi tay lúc nào không biết. Rất hay, thời đó lạc được xâu từng dây bằng cật giang, mỗi xâu khoảng 30 củ, không phải xúc rời từng bơ, từng đĩa như giờ. Và cũng phải nhờ được một người bạn cùng nghề bán dạo thấy thế, nhặt giúp cho trả lại. Dĩ nhiên, cả mẹt lạc của ông hôm đó bị ế ẩm.

Mặc dù mới mười ba tuổi, nhưng tâm hồn nghệ sĩ của ông được thôi thúc ngay trong lần đầu tiên xem biểu diễn của Đội văn nghệ Bộ đội, khiến đêm đó ông không tài nào chớp mắt được. Sáng dậy, ông nhất quyết đòi bố xin cho nhập vào Vệ quốc đoàn làm liên lạc và kéo phông màn phục vụ công diễn văn nghệ. Lúc đó, bố ông làm anh nuôi của Trung đoàn 103 không có cách gì từ chối được quyết tâm của ông, nên cụ đã dắt con đến gặp thủ trưởng trình bày và ông được biên chế vào đơn vị ngay. Và từ đó, dần dần ông trở thành diễn viên, thành nhà thơ, nhà viết lời bình phim… lúc nào, chính ông cũng không nhớ rõ! Có một điều cần phải ghi nhận, là ông đã vận động bằng chính đôi chân và tài năng thiên bẩm của mình.

Tôi có rất nhiều kỷ niệm với nhà thơ Phạm Ngọc Cảnh. Nhất là giai đoạn khó khăn, vợ chồng phải mưu sinh bằng ghề bán gân vó bò. Hồi đó nhà tôi gần nhà em trai ông là liệt sỹ Nguyễn Ngọc Thứ ở xóm Cữa Hữu- Lê Bình. Mỗi lần về thắp hương cho em trai, ông thường ghé sang tôi uống rượu thâu đêm và ngủ lại dưới nền chiếu đất. Bởi nhà tôi chỉ có một cái chạn, phần đất nền chật chỉ đủ dành làm quán, nên không kê giường. Ông vừa coi tôi như một đứa con, vì ông là bạn bè cùng tuổi và cùng xóm phố với mẹ tôi; vừa coi tôi như một người em, vì tôi chơi thân với cô Hợi em út của ông;  vừa coi tôi như một đồng nghiệp, mặc dù ông là người hướng tôi vào con đường sáng tạo và giới thiệu thơ tôi trên tạp chí Văn nghệ quân đội.

Ông từng nói với tôi rằng: Bà đội Chung- Mẹ ông chỉ với một cuộn sợi vải Thạch Đồng trên tay mà nuôi cả nhà thì không có gì không làm được như ông từng thổ lộ trong một bài thơ báo Tết những năm 60: Mấy vuông vải Đồng Môn/ Tất tưởng quanh năm cho con áo Tết/ Dăm đòn bánh tét/ Lá dong xanh gói nợ gói nần/ Mẹ vẫn cười dù đói nghèo níu gót tận sang canh…

Quan trọng nhất là muốn làm được cái gì thì trước hết cần phải coi mọi thứ chỉ là phù phiếm. Khác với nhiều người, mỗi lần về quê ông chỉ nghỉ lại ở nhà anh em và bạn bè. Bất đắc dĩ lắm, ông mới thuê khách sạn, phòng trọ. Thời mẹ ông còn sống thì nhất thiết kiểu gì ông cũng về ngủ với mẹ trong căn nhà nhỏ hai gian được chính quyền thành phố xây cho mẹ ông tại phường Bắc Hà, theo diện đối tượng chính sách.

Thi sĩ Phạm Ngọc Cảnh không tìm đến vật chất, mà vật chất cũng chỉ tìm đến ông với cái giá quá đắt so với sức lao động bằng bút lực của ông.

Vợ ông- cô Vũ Thị Tỵ kém ông ba tuổi là một người phụ nữ nết na xinh đẹp ở đất Hà Thành. Cô từng làm diễn viên múa tại Đoàn Văn công Tổng cục Chính trị. Vậy nhưng, ông trời quá nghiệt ngã đã bắt cô phải chịu cảnh bại liệt nằm một nơi suốt hai mươi năm trời, trong một căn hộ cấp 4 thuộc Khu tập thể Nhà máy gỗ diêm Cầu Đuống từ năm 1985 đến năm 2005. Đó là căn hộ cô được cấp sau khi chuyển ngành về công tác tại Nhà máy gỗ diêm Cầu Đuống.  Trong quãng thời gian đó, trên đôi vai của thi sĩ Phạm Ngọc Cảnh vừa phải đảm đang việc chăm sóc vợ, vừa viết như điên để đổi lấy đồng tiền.

Sau khi vợ ông qua đời cuối năm 2005, đúng 50 ngày lễ thất tuần của vợ thì đột ngột ông gặp phải cơn tai biến lần thứ nhất. Như một cơ duyên, bỗng dưng ngày đó có một người phụ nữ ở xứ Thanh kém ông tới 28 tuổi xuất hiện. Người phụ nữ xứ thanh vì mê tài năng của ông trước đó, đã tự nguyện làm một người Ôsin vĩ đại nhất mà tôi chưa từng thấy, kể cả trong phim ảnh và cả trong trí tưởng tượng. Người đó đến với ông, không chỉ làm thay cái việc mà ông đã từng làm đối với vợ ông suốt hai mươi năm trước, mà còn hơn thế nữa!

Bây giờ thì thi sĩ Phạm Ngọc Cảnh đã vãng sanh vào ngày 21/10/ 2014 ( 28/9 AL Giáp Ngọ). Quá thương! Qúa tiếc nhớ!.. Cây nhang tiễn biệt lần cuối đưa ông ra đài hóa thân hoàn vũ đã tắt, nhưng có lẽ nén hương trong lòng tôi dành cho ông vẫn luôn âm ỉ cháy mãi… cháy mãi… cho tới một ngày nào đó, tôi lại sẽ trở về gối giấc  bên con sông Cụt  quê ông và tôi.

Nguồn: Nguyễn Ngọc Vượng - Dân Trí

 

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • Kỷ niệm 100 năm Trường Đồng Khánh 

    BÙI KIM CHI

  • 50 năm ngày mất Giáo sư Đặng Văn Ngữ

    ĐẶNG NHẬT MINH

  • Nhân 110 năm ĐÔNG KINH NGHĨA THỤC (1907 - 2017)   

    TRẦN VIẾT NGẠC

  • NGUYỄN HOÀNG THẢO

    Trước khi có chợ, bên ngoài cửa Ðông Ba (cửa Chánh Đông) dưới thời vua Gia Long có một cái chợ lớn mang tên “Qui Giả thị” - chợ của những người trở về.

  • NGUYỄN KỲ

    Cuộc vận động tranh cử và “đấu tranh nghị trường” trong thời kỳ 1936 - 1939 do Đảng Cộng sản Đông Dương lãnh đạo là một bộ phận đặc biệt trong cuộc đấu tranh vì quyền dân sinh dân chủ ở Việt Nam.

  • DÃ LAN NGUYỄN ĐỨC DỤ

    Thú thật với độc giả, một trong những điều vui thú nhất của tôi - cho tới nay tôi vẫn say mê - là sưu tầm khảo cứu về Phổ trạng (tức là lai lịch, nguồn gốc...) của các nhân vật lịch sử như Ngô Quyền, Nguyễn Xý, Nguyễn Trãi, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du, Phạm Ngũ Lão, Phạm Sư Mạnh...

  • LÂM QUANG MINH

    Tôi không có vinh dự như nhiều anh chị em cán bộ, dũng sĩ từ miền Nam ra Bắc công tác, học tập hay chữa bệnh, được trực tiếp gặp Bác Hồ, được Bác ân cần động viên dạy bảo, được cùng ngồi ăn cơm với Bác, được Bác chia bánh chia kẹo... như người cha, người ông đối với các con cháu đi xa về.

  • THANH HẢI
            Hồi ký

    Tháng 10 năm 1962, tôi được vinh dự đi trong đoàn đại biểu mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam ra thăm miền Bắc. Lần đó một vinh dự lớn nhất của chúng tôi là được gặp Hồ Chủ Tịch.

  • Giáo sư Bửu Ý, tên đầy đủ là Nguyễn Phước Bửu Ý, sinh năm 1937 tại Huế. Ông vừa là nhà giáo, nhà văn, vừa là dịch giả của các tiểu thuyết nổi tiếng như Nhật kí của Anna Frank, Đứa con đi hoang trở về, Bọn làm bạc giả của André Gide, Con lừa và tôi của Juan Ramón Jiménez; Thư gửi con tin của Antoine de Saint-Exupéry… đăng trên các tạp chí Mai, Văn, Diễn đàn, Phố Văn (trước 1975).

  • I. Nhớ hơn bốn mươi năm về trước, vào khoảng đầu mùa đông năm 1974 - mùa dỡ củ dong riềng - tôi đi chợ Chũ (Lục Ngạn), mua được tập truyện Khúc sông. Trên lối mòn đường rừng, bước thấp bước cao, tôi vừa đi vừa tranh thủ đọc. Ngày ấy, tôi chỉ biết tên tác giả là Nguyễn Thiều Nam, nào có biết đẳng cấp của ông trong làng văn ra sao!

  • Sinh thời, cha tôi – họa sỹ Trịnh Hữu Ngọc, hầu như không bao giờ nhắc đến những năm học vẽ ở Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương (MTĐD).

  • HỒ QUỐC HÙNG
    (Thân mến tặng các bạn lớp Văn K9 - Đại học Tổng hợp Huế)

    Ai cũng có kho ký ức riêng cho chính mình như một thứ tài sản vô hình. Ký ức lại có những vùng tối, vùng sáng và lúc nào đó bất chợt hiện lên, kết nối quá khứ với hiện tại, làm cho cuộc sống thêm ý vị.

  • TRẦN VĂN KHÊ
                Hồi ký

    Có những bài thơ không bao giờ được in ra thành tập.
    Có những bài thơ chỉ còn ghi lại trong trí nhớ của tác giả và của đôi người may mắn đã được đọc qua một đôi lần.

     

  • Ngắm nhìn vẻ đẹp tinh khiết của cô nữ sinh Đồng Khánh dưới vành nón Huế, trong chiếc áo dài trắng tinh khôi, không ai nghĩ chỉ ít năm sau ngày chụp bức ảnh chân dung ấy, chị chính là nạn nhân của một chế độ lao tù tàn bạo và nghiệt ngã.

  • Trong quy hoạch một đô thị văn minh, vỉa hè là khoảng công cộng dành cho người đi bộ. Còn theo kiến trúc, vỉa hè là đường diềm, trang trí cho phố phường tạo ra sự hài hòa giữa đường và nhà mặt phố. Người Pháp đã làm những điều đó ở Hà Nội từ cuối thế kỷ 19.

  • TRẦN PHƯƠNG TRÀ

    Hồi những năm 1950, làng Trúc Lâm quê tôi thuộc vùng du kích ven thành phố Huế.

  • QUẾ HƯƠNG

    Ngày 15/7/2017 tới đây, ngôi trường hồng diễm lệ nằm cạnh trường Quốc Học, từng mang tên vị vua yểu mệnh Đồng Khánh chạm ngưỡng trăm năm.

  • THÁI KIM LAN

    Trong những hình ảnh về ngày Tết mà tôi còn giữ được thời thơ ấu, thì Tết đối với tôi là Tết Bà, mà tôi gọi là Tết Mệ Nội chứ không phải Tết Mạ. Bởi vì mỗi khi Tết đến, cả đại gia đình chúng tôi đều kéo nhau lên nhà Từ đường “ăn Tết", có nghĩa quây quần chung quanh vị phu nhân trưởng tộc của dòng họ là bà nội tôi.

  • TRẦN VIẾT NGẠC  

    Báo Xuân xưa nay luôn là số báo đẹp nhất, phong phú nhất trong một năm. Bài vở số Xuân được tòa soạn đặt bài trước cho các cây bút thân quen, nổi tiếng từ mấy tháng trước.

  • NGUYÊN HƯƠNG

    Trong đời, người ta ai cũng nên phải lòng một vùng đất. Cảm giác đó thật đặc biệt, giống như khi ta một mình đi đêm về sáng, bỗng gặp đóa hoa cô đơn thức sớm nở ngoài thềm, thấy thương.