Nhà báo Phan Quang: Cảm nhận Đồng bằng sông Cửu Long

09:03 22/07/2014

“Như vậy đó, hiện đại và hoang sơ, bí ẩn và cởi mở, giàu có và khó nghèo chen lẫn, đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) hiện lên trước mắt ta, ngồn ngộn sức sống”. Nhà báo, nhà văn Phan Quang đã thốt lên như vậy cách đây gần 40 năm, khi ông lần đầu đặt chân đến vùng đồng bằng châu thổ. Những điều ông viết về ĐBSCL ngày ấy - bây giờ còn tươi mới tính thời sự, lan tỏa và trường tồn với thời gian.

Tác phẩm Đồng bằng sông Cửu Long của tác giả Phan Quang tái bản lần thứ 5 (Nhà Xuất bản Lao Động, 2014) được điều chỉnh, cập nhật, có sức hấp dẫn cả về giá trị nghiên cứu và thực tiễn đời sống, vẫn hiện lên trước mắt ta, ngồn ngộn sức sống, như Phan Quang đã từng nói về vùng châu thổ này.

Trước hết, xin được bày tỏ sự kính trọng, ngưỡng mộ nhà báo, nhà văn Phan Quang, người cầm bút sắc sảo, cần mẫn, lao động nghiêm túc, trách nhiệm xã hội luôn đong đầy, một trong những đại thụ của báo chí Việt Nam đương đại. Đã ở tuổi xưa nay hiếm mà đều đặn mỗi năm ông vẫn cho ra vài ba đầu sách. Ông từng khích lệ bạn bè, đồng nghiệp: “Viết được gì thì cứ viết. Giả dụ viết chưa được hay để cộng đồng, xã hội cùng đọc, thì viết cho bạn bè, người thân, cho chính mình xem”. Khá nhiều đồng nghiệp lớp ít tuổi hơn đã theo gương ông, viết những điều về bạn bè, đồng nghiệp, về đất nước, con người Việt Nam hào khí.

Phan Quang viết khỏe, viết đều như chính cuộc đời ông sinh ra là để viết. Sắp vào tuổi 90, ông vẫn minh mẫn, uyên bác, trí nhớ tuyệt vời. Đồng bằng sông Cửu Long là tập bút ký chuyên về Nam bộ, đến mức cố nhà văn, nhà nghiên cứu Nam bộ Sơn Nam khi được Phan Quang mời đọc bản thảo lần đầu và góp ý điều chỉnh giúp các địa danh Nam bộ cho thật đúng, đã thốt lên: “Phan Quang đã hóa thân công phu, trách nhiệm, thắm nghĩa tình vào từng con chữ về miệt vườn Nam bộ”.

Phan Quang bước vào nghề báo năm 1948 tại báo Cứu Quốc Liên khu IV xuất bản hàng ngày thời kháng chiến chống Pháp. Hòa bình lập lại, năm 1954 ông được điều về báo Nhân Dân, cơ quan trung ương của Đảng. Những năm tháng làm việc ở báo Nhân Dân - Trưởng ban Nông nghiệp và Nông thôn, Trưởng ban Kinh tế, Ủy viên Ban biên tập… Sau đó, ông giữ nhiều trọng trách khác nhau: Vụ trưởng Vụ Báo chí Ban Tuyên huấn Trung ương; Thứ trưởng Bộ Thông tin; Tổng Giám đốc - Tổng biên tập Đài Tiếng nói Việt Nam; Phó Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội; Chủ tịch Hội Nhà báo Việt Nam v.v... Ở cương vị công tác nào, kể cả khi ông làm nhiệm vụ quản lý báo chí và đối ngoại, nhà báo, nhà văn Phan Quang vẫn mải miết đi và viết. Ông thâm nhập cuộc sống, đến với nhân dân, đến với nhiều vùng miền của đất nước, kiên trì đọc - đi - nghĩ - viết, như chính ông hằng tâm sự. Nếu tính từ bài báo đầu tiên in năm 1948, tập truyện ngắn đầu tay do Nhà Xuất bản Minh Đức ấn hành năm 1954, đến nay Phan Quang đã cầm bút liên tục 66 năm, để lại khối lượng gần bốn chục tác phẩm xuất bản và rất nhiều bài báo ngắn, dài. Bộ truyện cổ Ả Rập nổi tiếng Nghìn lẻ một đêm, và 20 năm sau bộ truyện cổ Ba Tư Nghìn lẻ một ngày do ông chuyển ngữ, đến nay đã tái bản 34 lần.

Sau năm 1975, non sông thu về một mối, ngòi bút Phan Quang thỏa sức tung hoành khắp Bắc - Trung - Nam. Những bút ký báo chí thấm đậm chất văn học của ông, khi ở Bình Trị Thiên, Quảng Nam - Đà Nẵng, lúc ở Đà Lạt - Lâm Đồng, Tây Ninh, khi ở TPHCM, vùng ĐBSCL… Phan Quang dành nhiều tâm huyết cho quê hương Quảng Trị, vùng đất khói lửa, nghèo khó nhưng rất đỗi kiên trung. Tấm lòng sâu nặng với quê hương, nhiều bài viết về miền quê Quảng Trị da diết, thấm đậm tình người, tình quê, giàu chất thơ ca.

Một số lần đến nhà riêng của ông ở quận Đống Đa, Hà Nội, ngắm nhìn những tủ sách của ông, xem cung cách ông làm tư liệu báo chí, tôi và nhiều đồng nghiệp hậu sinh tâm phục, nể trọng về sức làm việc, trách nhiệm xã hội của người cầm bút. Ông làm tư liệu công phu, tỉ mỉ, khoa học. Cần bất cứ tài liệu gì, chỉ trong vòng dăm ba phút, ông đã tìm được ngay từ đống hồ sơ lưu giữ. Tôi hỏi ông, cuốn sách Đồng bằng sông Cửu Long giàu tư liệu, ngồn ngộn thông tin, bằng cách nào trong một thời gian ngắn, ông đã có những tư liệu đó. Ông trả lời: “Đọc, đi, nghĩ, viết”. Có vấn đề gì đó chưa tỏ ngọn ngành, tôi vào thư viện lục tìm, khảo cứu từ sách báo nước ngoài, hỏi han các lão nông tri điền bản địa. Biết mười viết một. Cái gì chưa nắm chắc, dứt khoát không viết”.

Chắc chắn những ai cần tìm hiểu đất và người vùng đồng bằng Nam bộ, không thể không đọc “Đồng bằng sông Cửu Long” của nhà báo, nhà văn Phan Quang. Ngòi bút của Phan Quang miêu tả sống động vùng đất mới, giàu tiềm năng: Đồng bằng sông Cửu Long. Những bài viết đặc sắc, giàu thông tin, tự nó đã khẳng định sự phong phú, đa dạng của tập bút ký tràn đầy hơi thở cuộc sống: Dải đất đa dạng ẩn giấu nhiều bí tàng của trời đất; Cửu Long sông Mẹ và những tặng phẩm của thiên nhiên; Vùng lúa hình thành qua nước mắt và mồ hôi; Ruộng và người làm ruộng; Trong cảnh lúa đầy đồng, cá đầy ruộng; Một vùng đầy trái ngược; Qua những tên đất, tên sông; Nghĩ về tính cách con người… Tập bút ký Đồng bằng sông Cửu Long dày gần 500 trang là một công trình lao động nghiêm túc, đầy trách nhiệm, rất tân văn mà cũng rất văn học. Trái tim Phan Quang, tình yêu của Phan Quang về vùng đồng bằng châu thổ hiện hữu trong từng con chữ. Miêu tả kết hợp với tư liệu khảo cứu, những số liệu cần thiết xác đáng làm cho những bài bút ký của ông luôn giàu thông tin. Ông miêu tả kênh rạch, cảnh trời mây nước miệt vườn - đặc trưng đồng bằng châu thổ không thể trộn lẫn. Đó là khoảng không gian hào hùng của lịch sử thời mở cõi, truyền thống anh hùng chiến đấu chống giặc ngoại xâm, nền văn hóa bản địa, phong tục, tập quán, cốt cách con người Nam bộ, để từ đó ông khái quát thành điểm nhấn về dải đất đa dạng, đan xen quá khứ - hiện tại - tương lai, từ chiều sâu nhân cách, từ cội rễ ngọn nguồn: “Suốt mấy nghìn năm kể từ ngày dựng nước, ông cha ta đã bám chắc mảnh đất quê hương, khai phá ruộng đất, cải tạo thiên nhiên để nuôi sống mình và qua đó từng bước mở mang bờ cõi, xây dựng cơ đồ để lại cho con cháu muôn đời về sau. Một tay cầm chiếc cuốc vỡ hoang, một tay nắm thanh gươm giữ nước, không có hình ảnh nào diễn tả chân xác lịch sử hơn” (Trang 141).

Nghĩ về tính cách con người (Nam bộ), Phan Quang khảo cứu, sử dụng cứ liệu lịch sử, đặc điểm cư dân, xuất phát từ điều kiện tự nhiên - xã hội - điều kiện lịch sử một cách biện chứng, từ đó qua phân tích và cảm nhận của mình vẽ nên tính cách - chân dung con người vùng châu thổ có chiều sâu. Năm đặc điểm nổi bật trong tính cách của người nông dân Nam bộ, theo Phan Quang là: “Lòng yêu nước nồng nàn và kiên định; Dũng cảm, ngang tàng, phóng khoáng; Hiếu khách, trọng nghĩa khinh tài; Sẵn sàng tiếp thu cái mới; Bộc trực, ăn nói thẳng thắn, ít khi văn hoa, rào đón” (Trang 463 - 477).

Không tính về văn học, ông đã in một số tập truyện ngắn, truyện vừa, phóng tác… Về báo chí, Phan Quang viết đủ thể loại. Thế mạnh hơn cả ở ông là bút ký. Báo Tuổi Trẻ (số ra ngày 6-11-1980) nhận định: “Ta thường đọc ký văn học của Nguyễn Tuân, Xuân Diệu, ký chính luận của Thép Mới, ký mang tính triết lý của Chế Lan Viên…, khoảng mấy năm gần đây đã xuất hiện thêm một loại ký khá đặc biệt, ký nghiêng về các chủ đề kinh tế (mà Đồng bằng sông Cửu Long là tác phẩm tiêu biểu). Người viết: Phan Quang”.

Những năm tháng làm công tác quản lý và đối ngoại, kết hợp những chuyến đi công tác nước ngoài, Phan Quang viết nhiều bút ký lữ hành (du ký), tập hợp tại mấy tập: Thơ thẩn Paris, Bên mộ vua Tần, Chia tay trên sông… Về già, hoài niệm bạn bè, ông lại viết bút ký chân dung: Những người tôi quý mến, Thương nhớ vẫn còn.

Xin được chúc mừng nhà báo, nhà văn Phan Quang, tuổi cao nhưng sức viết vẫn dồi dào, bầu máu nóng từ con tim yêu nghề - say nghề vẫn như ngày nào. Huỳnh Hùng Lý, một đồng nghiệp cùng thời với ông ở Báo Nhân Dân, có lần tâm sự với Phan Quang: Chúng ta đang rượt đuổi thời gian. Phan Quang khiêm nhường đáp lời người bạn già: “Tôi tự dặn phải cố gắng. Cố gắng nhiều hơn nữa, may ra mới không phụ lòng những tấm lòng tri ngộ. Tiếc thay, quỹ thời gian của tôi không còn. Lực bất tòng tâm, quy luật tự nhiên càng không cho phép. Chỉ còn cách cúi đầu tri ân”. “Lão tướng” Phan Quang trong làng báo, làng văn là vậy. Phía trước nhà báo, nhà văn Phan Quang còn bao dự định ấp ủ đang… rượt đuổi thời gian.

Nguồn: PHẠM QUỐC TOÀN - SGGP

 

 


 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • BÙI VIỆT THẮNGVịt trời lông tía bay về (*) là sự lựa chọn có thể nói rất khắt khe của chính nhà văn Hồng Nhu, rút từ cả chục tập và chưng cất ba mươi truyện ngắn tiêu biểu của gần trọn một đời văn. Con số 33 là ít những không là ít vì nhà văn ý thức được sâu sắc quy luật nghiệt ngã của nghệ thuật ngôn từ “quý hồ tinh bất quý hồ đa”. 33 truyện được chọn lọc trong tập sách này có thể gọi là “tinh tuyển truyện ngắn Hồng Nhu”.

  • PHẠM PHÚ PHONGPhạm Đương có thơ đăng báo từ khi còn là sinh viên khoá bốn, khoa Ngữ văn đại học Tổng hợp Huế. Đó là thời kỳ anh sinh hoạt trong câu lạc bộ văn học của thành đoàn Huế, dưới sự đỡ đầu của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm (lúc này vừa rời ghế Bí thư thành đoàn, sang làm Tổng biên tập Tạp chí Sông Hương vừa mới thành lập.)

  • HÀ KHÁNH LINHNgười lính chiến trở về bỏ lại một phần thân thể của mình trên trận mạc, tựa vào gốc nhãn hoang bên vỉa hè lầm lụi kiếm sống, thẳng ngay, chân thật, khiêm nhường.

  • PHẠM XUÂN NGUYÊNTrong Ngày Thơ Việt vừa qua, một tuyển tập thơ “nặng hàng trăm năm” đã được đặt trang trọng tại Văn Miếu Quốc Tử Giám Hà Nội. Rất nhiều những bài thơ xứng đáng với danh xưng hay nhất thế kỷ XX đã “biện lý do” vắng mặt, và ngược lại. Đấy là một trong nhiều sự thật được đa phần dư luận kiểm chứng. Cũng là một góc nhìn khá rõ nét, Sông Hương xin giới thiệu ba bài viết của Phạm Xuân Nguyên, Nguyễn Hữu Qúy và Phước Giang về tuyển tập thơ “nặng ký” trên.

  • NGUYỄN HỮU QUÝCuộc thi bình chọn 100 bài thơ hay nhất Việt Nam thế kỷ XX do Trung tâm Văn hoá doanh nhân và Nhà xuất bản Giáo Dục phối hợp tổ chức đã kết thúc. Một ấn phẩm mang tên “100 bài thơ hay nhất Việt thế kỷ XX” đã được ra đời. Nhiều người tìm đọc, trong đó có các nhà thơ và không ít người đã tỏ ra thất vọng, nghi ngờ.

  • PHƯỚC GIANGTrung tâm Văn hóa doanh nhân và Nhà xuất bản Giáo dục vừa tuyển chọn và giới thiệu 100 bài thơ hay nhất thế kỷ XX.Việc này thực hiện trong hai năm, theo ông Lê Lựu, Giám đốc Trung tâm Văn hóa doanh nhân thì kết quả thật mỹ mãn: hơn 10.000 phiếu bầu, kết quả cuối cùng “không ai bị bỏ sót” và “trong 100 bài đã được chọn chỉ chênh với các danh sách khác khoảng 5-7 bài”.

  • NHỤY NGUYÊN

    Truyện ngắn của Nguyên Quân trong Vòng tay tượng trắng (Nxb. Văn Học, 2006) khá mộc mạc ở cả đề tài và lối viết, nhưng cũng nhờ cái mộc mạc đó đã hút được nguồn nguồn mạch sống.

  • QUÁCH GIAOMùa Xuân Đinh Hợi đến với tôi thật lặng lẽ. Cây Thiết Mộc Lan nơi đầu ngõ năm nay ra hoa muộn song lại tàn trước Tết. Hoa trong sân nhà chỉ lưa thưa vài nụ Bát Tiên. Hai chậu mai không buồn đâm hoa trổ nụ. Đành thưởng xuân bằng thơ văn của bằng hữu.

  • NHỤY NGUYÊN

    (Đọc Ngày rất dài - Thơ Đoàn Mạnh Phương, Nxb Hội Nhà văn, 2007)

  • TRẦN THÙY MAI(Đọc Đức Phật, nàng Savitri và tôi, tiểu thuyết của Hồ Anh Thái, Nhà xuất bản Đà Nẵng, 2007)

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ(Nhân đọc “Nhà văn Việt Nam hiện đại” - Hội Nhà văn Việt Nam xuất bản, 5-2007)Trong dịp kỷ niệm 50 năm thành lập Hội Nhà văn Việt Nam (1957-2007), Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam (HNVVN) đã xuất bản công trình quan trọng “Nhà văn Việt Nam hiện đại” (NVVNHĐ), dày 1200 trang khổ lớn, tập hợp chân dung trên một ngàn nhà văn các thế hệ, từ các cụ Ngô Tất Tố, Phan Khôi… cho đến lớp nhà văn vừa được kết nạp cuối năm 2006 như Nguyễn Danh Lam, Nguyễn Vĩnh Tiến, Phan Huyền Thư…

  • BÍCH THU(Đọc Tô Hoài - Đời văn và tác phẩm của Hà Minh Đức, Nxb Văn học, 2007)Tô Hoài - Đời văn và tác phẩm của Hà Minh Đức là cuốn sách tập hợp những ghi chép và nghiên cứu về nhà văn Tô Hoài, một tác gia lớn của văn học Việt Nam hiện đại. Đây là cuốn sách đầu tiên kết hợp hai phương diện ghi chép và nghiên cứu, góp một cách tiếp cận đa chiều và cập nhật về con người và sự nghiệp của nhà văn.

  • NGUYỄN QUANG HÀ(Đọc Từ đá vắt ra  của Trần Sĩ Tuấn)Chiếc áo choàng mà tác giả nói ở đây là chiếc áo blouse trắng của người thầy thuốc. Tác giả là bác sĩ. Chắc anh đang làm thơ về nghề nghiệp của mình.Trong đời có bốn bậc thầy được nhân dân ngưỡng mộ: Thầy thuốc chữa bệnh, thầy giáo dạy học, thầy cúng, thầy phù thủy cùng dân tìm cõi tâm linh.

  • HẢI TRUNGKhoa tuyên bố với tôi: mình viết truyện ngắn đây, không phải để thành nhà gì cả, cốt để cho mấy đứa con làm gương mà học tập. Tôi ngờ ngợ, cứ nghĩ là anh nói vui vì chơi với đám bạn văn chương mà bốc đồng buột miệng. Ai ngờ anh viết thật, viết say sưa, viết để quên và để nhớ.

  • VĂN CẦM HẢIVề phía biển, là thường nhân di du với cõi minh mang nhưng Nguyễn Thanh Tú, biển là nơi anh được vời vợi nỗi cô đơn của một loài thân phận có tên là thơ!

  • MAI VĂN HOANHồn đầy hoa cúc dại là tập thơ thứ bảy của Lâm Thị Mỹ Dạ. Thơ Dạ đã có rất nhiều người bàn luận, bình phẩm. Mỗi người có một cách cảm nhận riêng. Bài viết của Ngô Minh mới đây giúp cho độc giả biết thêm những uẩn khúc, những góc khuất trong cuộc đời của Dạ.

  • DUNG THÙYĐây là tập thơ đầu tay của tác giả Nguyễn Thị Anh Đào do NXB Đà Nẵng ấn hành với cảm xúc tròn đầy và một tâm hồn nồng ấm. Là một cây bút trẻ đang độ sung sức, chị có nhiều thơ và truyện ngắn đăng trên các báo, tạp chí và Ngày không trở lại gói ghém những niềm riêng.

  • LÝ HẠNH(Đọc Thơ tặng của nhà thơ Ngô Minh)Ngô Minh là nhà thơ, nhà văn, nhà báo, vì thế mà cố nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng đã từng nói về ông một cách trìu mến: “Ba con người trong một con người thâm thấp”. Có một điều đặc biệt, chính con người thâm thấp ấy đã phân thân thành 3 con người khác nhau, mà con người nào cũng “ra hồn ra vía” cả.

  • FRANCOIS BUSNELKiran Desai là nữ văn sĩ người Ấn Độ. Cô sinh năm 1971 tại Dehli. Là con gái của nữ tiểu thuyết gia Anita Desai. Kiran Desai lớn lên và học tiểu học ở Dehli đến năm 14 tuổi. Sau đó, cô cùng mẹ sang Anh Quốc, rồi Hoa Kỳ, học trung học ở tiểu bang Massachussettes. Cô theo học lớp viết văn ở Virginie và sau đó học Đại học Columbia ở NewYork.

  • TRẦN HUYỀN SÂM Một mùa đông ở Stockholm của Agneta Pleijel là một hiện tượng nghệ thuật độc đáo, tiêu biểu cho tính chất “đả phá thể loại” của tiểu thuyết hiện nay. Tác phẩm dung nạp nhiều đặc tính của tiểu thuyết Châu Âu hậu hiện đại: Phép giản lược tối thiểu, lối kể chuyện tung hứng, thủ pháp lạ hoá hình thức văn bản tác phẩm, đặc biệt là kiểu tự thuật “đánh tráo” chủ thể trần thuật.