Huế là vùng đất lịch sử, văn hóa, tâm linh; vùng đất của thơ ca, âm nhạc. Biết bao văn nhân đã thành danh, nổi danh trên đất Huế; và có biết bao nhà văn, nhà thơ đã viết về Huế, nhiều người tên tuổi gắn với những tác phẩm về Huế. Thế nhưng, Huế mãi mãi vẫn là vùng đất “kích hoạt” đam mê, sáng tạo. Cảm xúc về Huế không thuộc về riêng ai.
Có lẽ cũng vì điều này, khi phát hiện ra trong Vực trắng của Lữ Mai có mục “Gửi Huế” gồm 10 bài thơ, tôi ưu tiên xem trước, dẫu không phải bắt đầu từ đầu tập thơ. Với một nhà thơ thế hệ 8X như Lữ Mai, Huế trong tâm hồn họ như thế nào?
Không gian Huế trong thơ Lữ Mai có vật thể và phi vật thể, từ thành quách, rêu phong... đến ẩm thực, trà sen, tiếng dạ thưa xứ Huế; có biểu tượng nghệ thuật bốn mùa, hoa cỏ và những gì thân thương nhất thuộc “Vòm Huế”. “Hẹn hò bằng dáng cỏ cây/ nhịp thở/ mây bay/ nhịp ngày/ mòn lối/ dơi quên về ăn vải Phụng Tiên” (Vòm Huế).
...
Cớ chi người đợi bên tùng bách
Trách thuở Nam Giao tơ đồng
Trách thuở trăng soi Vọng Cảnh
Huế bây giờ vẫn tím những ngày xưa
(Cà phê với Huế)
Đọc Vực trắng nhận ra trong tâm hồn trong như sương mai của nhà thơ Lữ Mai có một phần thuộc về Huế. “Ngày mai điểm trang/ mây trắng phủ ngang trời Bạch Mã/ nụ hôn ngàn năm vẫn lạ/ ánh lên phơi phới tháp ngà” (Thủ thỉ).
Đọc những bài thơ của Lữ Mai về Huế, nhận ra ở chị năng lượng và ý thức luôn khát khao mang đến những điều mới mẻ cho thi ca. Chị là một nhà thơ, nhà báo xông xáo, gắn bó với cuộc sống, giàu lòng trắc ẩn. Theo dõi trên trang cá nhân, dễ nhận ra chị “xê dịch” nay đây mai đó.
Năm 2020, Lữ Mai tặng tôi trường ca Ngang qua bình minh (2020) viết về biển đảo, sự hy sinh anh dũng của những người lính hải quân. Trường ca này đã được nhận giải Ba, Giải thưởng Văn học về biên giới, biển đảo giai đoạn từ 1975 đến nay của Hội Nhà văn Việt Nam. Lần trao giải đó, nhà thơ Đoàn Văn Mật -chồng chị cũng được đứng trên bục vinh danh.
Năm 2021, Lữ Mai tặng tôi trường ca Chư Tan Kra mây trắng (2021) về “Trung đoàn mũ sắt” - đề tài hậu chiến về cuộc chiến đấu của các cựu binh ở ngọn núi Chư Tan Kra ở chiến trường Tây Nguyên năm xưa. Năm 2022, chị tặng tiếp trường ca Hồi sinh (2022) về đại dịch khủng khiếp có tên là Covid-19. Thú thật, tôi choáng ngợp, bất ngờ về năng lượng trong thân hình mảnh mai, ngỡ như “liễu yếu, đào tơ” của chị.
Cả ba trường ca đều được đánh giá cao, chạm đến trái tim người yêu thơ, thực sự lan tỏa vào trong cuộc sống. Khi xuất bản trường ca Chư Tan Kra mây trắng, Lữ Mai đã dành trọn vẹn tiền bán sách tặng các cựu chiến binh. Kinh phí thu được từ phát hành trường ca Hồi sinh được chị dành cho một số bệnh nhân chịu hậu quả nặng nề của Covid-19.
Lữ Mai là người gắn bó với biên giới, hải đảo; từ các tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa đến quần đảo Trường Sa. Phần I của Vực trắng có chủ đề “Từ núi” gồm 14 bài thơ về núi, sông; các địa danh như Nguyên Bình (Cao Bằng), Bảo Yên (Lào Cai); về nhân vật cụ thể như nàng Biêng cho đến nhân vật ẩn dụ. Chắc chắn đây là những sáng tác trong một chuyến công tác nào đó ở các tỉnh biên giới phía Bắc của nhà thơ.
...
dẫu đến lúc tiếng chim chia mùa hạt
gieo lòng sâu mọc nên mùa cây
những bóng người tìm nhau thôi run rẩy
nhẹ hơn bóng núi
và bay
(Từ núi)
Nhà văn Chu Văn Sơn từng nhận xét, trong thơ Lữ Mai chập chờn bóng đời, rưng rức tâm trạng. Thơ Lữ Mai rất riêng, hiện thực khúc xạ qua tâm hồn tinh tế của chị thành một “dị bản”, mở ra sương khói, nhưng dễ đồng cảm, đồng hiện. “Nàng vẫn ngồi thêu trong chiều/ nàng vẫn lướt qua mình chầm chậm/ không ai gọi nàng là thiếu nữ câm/ bởi núi rừng hào phóng phức âm” (Vài khúc cho Biêng). Ở bài thơ này, dù nhân vật căn cước tên Biêng nhưng đã rất “thủy mặc”, huyền ảo. “Lớp hiện thực” đã bị “đẩy lùi” về phía sau.
Trong thơ Lữ Mai, hẳn nhiên có thời gian, bốn mùa, cỏ cây, hoa lá...; tuy nhiên qua tâm hồn giàu cảm xúc, tinh tế của chị thời gian và không gian nghệ thuật ấy được “đẩy lên” thành những thi ảnh mới lạ. Ví dụ: “gió trinh nguyên bịn rịn/ nhận ramình”(Gió đèo); “Mỗi trái hồng ngâm làm một mặt trời/ mùa thu vừa rơi vừa ngủ” (Từ núi); hoặc “ký ức hùng thiêng/ trời nào xanh hơn mắt người nằm lại” (Đợi).
“Đợi” là bài thơ về hậu chiến, trong thơ Lữ Mai vẻ đẹp của lịch sử vừa bi hùng vừa tráng lệ.
...
lúa đương thì con gái
cánh đồng MườngThanh còn tê tái hẹn hò
mây mang bóng hình tàn tro
đàn chim thắp vệt ngày khói lửa
![]() |
Nhà thơ Lữ Mai (thứ 3 từ trái sang) nhận giải thưởng trong Cuộc thi Thơ Huế 2023 |
*
Nhà báo, nhà thơ Lữ Mai sinh năm 1988, là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, Hội viên Hội Nhà văn Hà Nội. Ngoài giải thưởng về đề tài biên giới, hải đảo, chị cũng đã nhận được nhiều giải thưởng văn chương khác như Giải B, Giải thưởng Văn học Nghệ thuật, Báo chí giai đoạn 2016 - 2020 của Bộ Tư lệnh Hải quân cho bộ sách Nơi đầu sóng, Mắt trùng khơi; Giải Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh năm 2019 của Tổng Cục chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam cho tác phẩm Nơi đầu sóng...
Vốn từ và vốn sống đối với chị là hai loại “lưng vốn” chị nâng niu. Ngoài thơ, Lữ Mai còn sáng tác văn xuôi. Năm 2019, Lữ Mai ra mắt tập truyện ngắn đầu tay Linh hồ. Lữ Mai là một nhà báo dấn thân, có dũng khí “giữa đường gặp chuyện bất bình chẳng tha”, với tất cả trách nhiệm xã hội, đáng trân trọng.
Lữ Mai còn là một người hoạt động văn học nghệ thuật nói chung, hoạt động xã hội sôi nổi. Chị là MC thông minh của nhiều chương trình trên sóng VTV, VOV và tham gia nhiều hoạt động truyền cảm hứng văn học cho lứa tuổi “nhí”.
“Cây nói bằng im lặng/ người nói bằng niềm riêng” là hai câu thơ trong bài “Vực trắng” của Lữ Mai. Tôi nghĩ mỗi người đều có niềm riêng, Lữ Mai càng giàu niềm riêng. “Chợt thấy mình hồi hương trong tiếng chợ/ màu trắng hoa thiền một sắc không”, hai câu thơ này trong bài “Phố nhà binh” xác tín rằng, Lữ Mai luôn suy tư, ưu tư. Chả là đoạn phố Lý Nam Đế, gần Tạp chí Văn nghệ quân đội, từ lâu đã là một cái chợ gốm sứ, sầm uất vào Tết hàng năm.
Cuộc sống đập vào mắt, làm chị đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Sinh thời nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo từng nói, khi còn ngạc nghiên người ta còn làm thơ. Với Lữ Mai, ngạc nhiên đã và đang trở thành năng lượng cảm xúc để chị sáng tạo.
*
Không chỉ làm thơ, viết văn xuôi, Lữ Mai còn sáng tác cho thiếu nhi và tham gia vào nhiều hoạt động tạo ra “từ trường” cho trẻ em yêu văn chương, như chị nói. Lữ Mai là tác giả của Ngàn lời sử xanh, một bài thơ dễ thương, được giảng dạy trong sách Tiếng Việt 5, tập 2, bộ Chân trời sáng tạo.
Tôi mới biết đến gia đình nhỏ của Lữ Mai chừng 5 năm nay nhưng thực sự quý trọng “tổ ấm” văn chương của chị. Chồng chị là nhà thơ Đoàn Văn Mật - Trưởng Ban Thơ của Tạp chí Văn nghệ Quân đội. Cả hai đều “ngập đầu” công việc, đam mê, trân trọng và nâng niu con chữ.
Con gái duy nhất của anh chị là Đoàn Lữ Thụy Phương (tên thân yêu là cháu Kẹo) đã và đang mang đến hy vọng về một “tài năng nhí” về văn học, dù cháu đang là học sinh phổ thông cơ sở ở Trường Chu Văn An (Hà Nội). Năm 2023, cháu xuất bản Bố con cà khịa, tác phẩm dành cho trẻ em, được Nxb. Kim Đồng in ấn, phát hành. Cuối năm đó, tác phẩm này được nhận giải của Hội đồng giám khảo Giải thưởng Văn học thiếu nhi Dế Mèn (Báo Thể thao và Văn hóa tổ chức).
Nhỏ nhẹ, dịu dàng, nữ tính ở ngoài đời, đó là ấn tượng dễ nhận ra ở nhà thơ - nhà báo Lữ Mai. Tôi biết năm 2023, Lữ Mai có tham gia cuộc thi “Thơ Huế năm 2023” do Tạp chí Sông Hương tổ chức, chị đạt giải Ba cuộc thi. Ngày diễn ra sự kiện trao giải chị có vào vui chung cùng với các tác giả khác. Lữ Mai ngọt ngào, e ấp cùng Huế.
Tôi nhận ra những nét rất Huế, nơi có “dòng Hương lặng lờ/ toan thở xanh sâu”, như hai câu thơ trong bài “Vẽ” của chị. Dường như Huế phảng phất ở Lữ Mai, từ dáng vẻ bề ngoài đến giai điệu tâm hồn?
Hà Nội, 9/7/2024
N.Đ.H
(TCSH54SDB/09-2024)
Hoàng Phủ Ngọc Tường. Sinh ngày 9 tháng 9 năm 1937. Quê ở Triệu Long, Triệu Hải, Quảng Trị. Năm 1960, tốt nghiệp khóa I, ban Việt Hán, Trường đại học Sư phạm Sài Gòn. Năm 1964, nhận bằng cử nhân triết Đại học Văn khoa Huế. Năm 1960 - 1966, dạy trường Quốc Học Huế. Từng tham gia phong trào học sinh, sinh viên và giáo chức chống Mỹ - ngụy đòi độc lập thống nhất Tổ quốc. Năm 1966 - 1975, nhà văn thoát li lên chiến khu, hoạt động ở chiến trường Trị Thiên. Sau khi nước nhà thống nhất, từng là Chủ tịch Hội Văn nghệ Quảng Trị, Tổng biên tập Tạp chí Cửa Việt.
ANH DŨNGLTS: Kết hợp tin học với Hán Nôm là việc làm khó, càng khó hơn đối với Phan Anh Dũng - một người bị khuyết tật khiếm thính do tai nạn từ thuở còn bé thơ. Bằng nghị lực và trí tuệ, anh đã theo học, tốt nghiệp cử nhân vật lý lý thuyết trường Đại học Khoa học Huế và thành công trong việc nghiên cứu xây dựng hoàn chỉnh bộ Phần mềm Hán Nôm độc lập, được giải thưởng trong cuộc thi trí tuệ Việt Nam năm 2001.Sông Hương xin giới thiệu anh với tư cách là một công tác viên mới.
SƠN TÙNGLTS: Trong quá trình sưu tầm, tuyển chọn bài cho tập thơ Dạ thưa Xứ Huế - một công trình thơ Huế thế kỷ XX, chúng tôi nhận thấy rằng, hầu hết các nhà thơ lớn đương thời khắp cả nước đều tới Huế và đều có cảm tác thơ. Điều này, khiến chúng tôi liên tưởng đến Bác Hồ. Bác không những là Anh hùng giải phóng dân tộc, là danh nhân văn hoá thế giới mà còn là một nhà thơ lớn. Các nhà thơ lớn thường bộc lộ năng khiếu của mình rất sớm, thậm chí từ khi còn thơ ấu. Vậy, từ thời niên thiếu (Thời niên thiếu của Bác Hồ phần lớn là ở Huế) Bác Hồ có làm thơ không?Những thắc mắc của chúng tôi được nhà văn Sơn Tùng - Một chuyên gia về Bác Hồ - khẳng định là có và ông đã kể lại việc đó bằng “ngôn ngữ sự kiện” với những nhân chứng, vật chứng lịch sử đầy sức thuyết phục.
NGUYỄN KHẮC PHÊAnh Hoài Nguyên, người bạn chiến đấu của nhà văn Thái Vũ (tức Bùi Quang Đoài) từ thời kháng chiến chống Pháp, vui vẻ gọi điện thoại cho tôi: “Thái Vũ vừa in xong TUYỂN TẬP đó!...” Nhà văn Thái Vũ từng được bạn đọc biết đến với những bộ tiểu thuyết lịch sử đồ sộ như “Cờ nghĩa Ba Đình” (2 tập - 1100 trang), bộ ba “Biến động - Giặc Chày Vôi”, “Thất thủ kinh đô Huế 1885”, “Những ngày Cần Vương” (1200 trang), “Thành Thái, người điên đầu thế kỷ” (350 trang), “Trần Hưng Đạo - Thế trận những dòng sông” (300 trang), “Tình sử Mỵ Châu” (300 trang)... Toàn những sách dày cộp, không biết ông làm “tuyển tập” bằng cách nào?
MINH QUANG Trời tròn lưng bánh tét Đất vuông lòng bánh chưng Dân nghèo thương ngày Tết Gói đất trời rưng rưng...
NGUYỄN THỊ THÁITôi không đi trong mưa gió để mưu sinh, để mà kể chuyện. Ngày ngày tôi ngồi bên chiếc máy may, may bao chiếc áo cho người. Tôi chưa hề may, mà cũng không biết cách may một chiếc Yêng như thế nào.
Nhà thơ Hải Bằng tên thật là Vĩnh Tôn, sinh ngày 3 tháng 2 năm 1930, quê ở thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ông mất ngày 7 tháng 7 năm 1998.
NGUYỄN VĂN HOACuốn sách: "Nhớ Phùng Quán" của Nhà xuất bản Trẻ, do Ngô Minh sưu tầm, tuyển chọn và biên soạn với nhiều tác giả phát hành vào quý IV năm 2003. Cuốn sách có 526 trang khổ 13x19cm. Bìa cứng, in 1000 cuốn. Rất nhiều ảnh đẹp của Nguyễn Đình Toán - nhà nhiếp ảnh chân dung nổi tiếng của Việt nam. Đơn vị liên doanh là Công ty Văn hoá Phương Nam.
ĐÀ LINHĐể có trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ, trước đó quân đội Nhân dân Việt Nam đã có những trận đánh để đời mở ra những khả năng to lớn về thế và lực cho chúng ta. Trong đó Trận chiến trên đường (thuộc địa) số 4 - biên giới Cao Bắc Lạng 1950 là một trận chiến như vậy.
HOÀNG VĂN HÂNLướt qua 30 bài thơ của Ngô Đức Tiến trong “Giọng Nghệ”, hãy dừng lại ở những bài đề tài tình bạn. Với đặc điểm nhất quán, bạn của anh luôn gắn liền với những hoài niệm, với những địa chỉ cụ thể, về một khoảng thời gian xác định. Người bạn ấy hiện lên khi anh “nghĩ về trường” “Thăm trường cũ”, hoặc là lúc nhớ quá phải “Gửi bạn Trường Dùng” “ Nhớ bạn Thanh Hoá”. Bạn của anh gắn với tên sông, tên núi: sông Bùng, sông Rộ, Lạt, Truông Dong, Đồng Tháp.
FAN ANHTrên thế gian này tồn tại biết bao nhiêu báu vật, hoặc những huyền thoại về báu vật, thì cũng gần như hiện hữu bấy nhiêu nỗi đau và bi kịch của con người vốn dành cả cuộc đời để kiếm tìm, bảo vệ, chiếm đoạt hay đơn giản hơn, đặt niềm tin vào những báu vật ấy. Nhẫn thạch (Syngué sabour - Pierre de patience) của Atiq Rahimi trước tiên là một báu vật trong đời sống văn học đương đại thế giới, với giải thưởng Goncourt năm 2008, sau đó là một câu chuyện về một huyền thoại báu vật của những người theo thánh Allad.
KIM QUYÊNSinh năm 1953 tại Thừa Thiên (Huế), tốt nghiệp Đại học Sư phạm Huế năm 1976, sau đó về dạy học ở Khánh Hoà (Nha Trang) hơn 10 năm. Từ năm 1988 đến nay, nhà thơ xứ Huế này lại lưu lạc ở thành phố Hồ Chí Minh, tiếp tục làm thơ và viết báo. Chị là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, hiện nay là biên tập viên Tạp chí Văn hoá Nghệ thuật của Sở Thông tin Văn hoá thành phố Hồ Chí Minh.
VÕ QUANG YẾN Tôi yêu tiếng nước tôi Từ khi mới ra đời làm người Phạm Duy
PHẠM NGUYÊN TƯỜNGKhao khát, đinh ninh một vẻ đẹp trường tồn giữa "cuộc sống có nhiều hư ảo", Vú Đá, phải chăng đó chính là điều mà kẻ lãng du trắng tóc Nhất Lâm muốn gửi gắm qua tập thơ mới nhất của mình? Bài thơ nhỏ, nằm nép ở bìa sau, tưởng chỉ đùa chơi nhưng thực sự mang một thông điệp sâu xa: bất kỳ một khoảnh khắc tuyệt cảm nào của đời sống cũng có thể tan biến nếu mỗi người trong chúng ta không kịp nắm bắt và gìn giữ, để rồi "mai sau mang tiếng dại khờ", không biết sống. Cũng chính từ nhận thức đó, Nhất Lâm luôn là một người đi nhiều, viết nhiều và cảm nghiệm liên tục qua từng vùng đất, từng trang viết. Câu chữ của ông, vì thế, bao giờ cũng là những chuyển động nhiệt thành nhất của đời sống và của chính bản thân ông.
MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHTôi nghe rằng,Rạch ròi, đa biện, phân minh, khúc chiết... là ngôn ngữ khôn ngoan của lý trí nhị nguyên.Chan hoà, đa tình, niềm nỗi... là ngôn ngữ ướt át của trái tim mẫn cảm.Cô liêu, thuỷ mặc, bàng bạc mù sương, lấp ló trăng sao... là ngôn ngữ của non xanh tiểu ẩn.Quán trọ, chân cầu, khách trạm, phong trần lịch trải... là ngôn ngữ của lãng tử giang hồ.Điềm đạm, nhân văn, trung chính... là ngôn ngữ của đạo gia, hiền sĩ.
MAI VĂN HOANTập I hồi ký “Âm vang thời chưa xa” của nhà thơ Xuân Hoàng ra mắt bạn đọc vào năm 1995. Đã bao năm trôi qua “Âm vang thời chưa xa” vẫn còn âm vang trong tâm hồn tôi. Với tôi, anh Xuân Hoàng là người bạn vong niên. Tôi là một trong những người được anh trao đổi, trò chuyện, đọc cho nghe những chương anh tâm đắc khi anh đang viết tập hồi ký để đời này.
NGUYỄN KHẮC PHÊ giới thiệuNhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà phê bình Hoài Thanh (1909-2009)Chúng ta từng biết cố đô “Huế Đẹp và Thơ” một thời là nơi hội tụ các văn nhân, trong đó có những tên tuổi kiệt xuất của làng “Thơ Mới” Việt Nam như Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên…; nhưng nhà phê bình Hoài Thanh lại đến với Huế trong một hoàn cảnh đặc biệt và có thể nói là rất tình cờ.
LÊ TRỌNG SÂM giới thiệuBà sinh ra và lớn lên ở Painpol và Saint-Malo, một đô thị cổ vùng Bretagne, miền đông bắc nước Pháp. Học trung cấp và tốt nghiệp cử nhân văn chương ở thành phố Nice, vùng xanh da trời miền nam nước Pháp. Là hội viên Hội nhà văn Pháp từ năm 1982, nay bà đã trở thành một trong số ít nhà văn Châu Âu đã tiếp thu và thâm nhập sâu sắc vào rất nhiều khía cạnh của văn hoá Việt Nam.
MAI VĂN HOAN giới thiệu Vĩnh Nguyên tên thật là Nguyễn Quang Vinh. Anh sinh năm 1942 (tuổi Nhâm Ngọ) ở Vĩnh Tuy, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Bố anh từng tu nghiệp ở Huế, ông vừa làm thầy trụ trì ở chùa vừa bốc thuốc chữa bệnh cho người nghèo. Thuở thiếu thời anh đã ảnh hưởng cái tính ngay thẳng và trung thực của ông cụ. Anh lại cầm tinh con ngựa nên suốt đời rong ruổi và “thẳng như ruột ngựa”.
LGT: Vài năm lại đây, sau độ lùi thời gian hơn 30 năm, giới nghiên cứu văn học cả nước đang xem xét, nhận thức, và đánh giá lại nền “Văn học miền Nam” (1954 - 1975) dưới chế độ cũ, như một bộ phận khăng khít của văn học Việt Nam nửa sau thế kỷ XX với các mặt hạn chế và thành tựu của nó về nghệ thuật và tính nhân bản. Văn học của một giai đoạn, một thời kỳ nếu có giá trị thẩm mỹ nhân văn nhất định sẽ tồn tại lâu hơn bối cảnh xã hội và thời đại mà nó phản ánh, gắn bó, sản sinh. Trên tinh thần đó, chúng tôi trân trọng giới thiệu bài viết vừa có tính chất hồi ức, vừa có tính chất nghiên cứu, một dạng của thể loại bút ký, hoặc tản văn về văn học của tác giả Nguyễn Đức Tùng, được gửi về từ Canada. Bài viết dưới đây đậm chất chủ quan trong cảm nghiệm văn chương; nó phô bày cảm nghĩ, trải nghiệm, hồi ức của người viết, nhưng chính những điều đó làm nên sự thu hút của các trang viết và cả một quá khứ văn học như sống động dưới sự thể hiện của chính người trong cuộc. Những nhận định, liên hệ, so sánh, đánh giá trong bài viết này phản ánh lăng kính rất riêng của tác giả, dưới một góc nhìn tinh tế, cởi mở, mang tính đối thoại của anh. Đăng tải bài viết này chúng tôi mong muốn góp phần đa dạng hóa, đa chiều hóa các cách tiếp cận về văn học miền Nam. Rất mong nhận được các ý kiến phản hồi của bạn đọc. TCSH