Nguyễn Xuân Thâm trên đường dài với thơ

16:49 02/06/2008
Những năm từ 1950 khi học ở trường trung học Khải Định (Quốc học Huế), tôi đã đọc một số bài thơ của Dao Ca đăng trên một số tờ báo như Đời mới, Nhân loại, Mới, Thẩm mỹ...

Sau hiệp định Genève 7.1954, ra học trường cấp ba Huỳnh Thúc Kháng, tôi đã gặp anh Nguyễn Xuân Thâm và biết đó chính là Dao Ca. Đang học năm thứ hai chuyên khoa Quốc học Huế, đầu năm 1954, Nguyễn Xuân Thâm lên chiến khu Hòa Mỹ của Thừa Thiên rồi ra Nghệ An học trường Huỳnh Thúc Kháng ở Bạch Ngọc. Tháng 8 năm 1956, anh thi vào trường Đại học Bách khoa Hà Nội. Tốt nghiệp kỹ sư năm 1960, anh được giữ lại trường làm cán bộ giảng dạy khoa Hóa thực phẩm. Bên cạnh việc giảng dạy và học tập, Nguyễn Xuân Thâm liên tục làm thơ, viết văn, cộng tác với nhiều báo và Đài Tiếng nói Việt . Anh lấy tên thật để ký dưới các bài thơ và hy vọng qua làn sóng của Đài Tiếng nói Việt , những người thân ở miền biết được anh đang còn sống. Làm biên tập chương trình Tiếng thơ nhiều năm, tôi đã thu thanh nhiều bài thơ của Nguyễn Xuân Thâm. Bài Cheo Reo của anh do nghệ sĩ Châu Loan trình bày là một trong nhiều bài được phát thanh nhiều lần với mấy câu mở đầu:
Cheo Reo Cheo Reo
Thuở ấu thơ mặc áo chàm theo mẹ
Tôi đến Cheo Reo.

Cheo Reo
Thưa thớt những buôn nghèo
Những Ma Chen, Ma Thít
Voi đi trong lũng hẹp.
Người Cheo Reo như cây mì...

Điều gửi gắm thầm kín của anh đã được bạn bè ở miền nghe chương trình Tiếng thơ báo cho gia đình anh biết. Nhà thơ Nguyễn Xuân Thiệp nói với người thân của anh: “Nguyễn Xuân Thâm còn sống và vẫn làm thơ, được phát thanh nhiều bài thơ”.
Năm 1964, phần Biển ấm của Nguyễn Xuân Thâm đăng cùng thơ của Nguyễn Nhã trong tập thơ Đồng xanh ở Nhà xuất bản Văn học. Năm 1973, Nguyễn Xuân Thâm có tập thơ Tiếng ong bay, năm 1985 có tập Nắng bên sông (in chung). Vừa dạy học, anh vừa học thêm tiếng Pháp và năm 1980, bảo vệ thành công luận án phó tiến sĩ: Nghiên cứu quá trình chuyển phân Prôtêin và lên men lắctic trong công nghệ mắm tôm chua của Việt . Anh thi đỗ đề giảng bài bằng tiếng Pháp cho bậc đại học ở nước ngoài nhưng sau đó lại phải học tiếng Bồ Đào Nha để dạy đại học ở . Bốn năm sống ở châu Phi, Nguyễn Xuân Thâm luôn tự phấn đấu để đủ trình độ dạy đại học. Anh cảm nhận được người châu Phi tốt và chân thực. Anh xúc động viết:
Tôi đi
Cỏ vương gót giày
Nhớ những cô gái da nâu
Với nụ cười trắng quá.
Ơi những trưa mưa đá
Tựa nước đổ trên đường
Những chiều Huambo gió
Ngồi lặng nơi sơn thôn...

Một năm không gặp sông

Bốn năm không gặp sông
Cuối dốc xin em một ngụm nước
Mi cong dài
Liễu của nhà ai liễu đỏ ơi

Tôi đi
Cứ dào dạt biển bờ
Cứ dào dạt
Thịt da châu Phi

Anh vừa chuẩn bị xong tập thơ mới tập Tìm trầm gồm 90 bài viết trong 15 năm qua, trong đó có 20 bài thơ viết cho thiếu nhi, phần Con gà đất bảy màu đã được giải thưởng của Nhà xuất bản Kim Đồng. Tập thơ ấy, anh đã gửi cho Nhà xuất bản Hội Nhà văn. Nhà thơ tâm sự:
“Với tôi, ngoài các chức năng khác, nhà thơ là người an ủi nhân dân mình, nhà thơ am hiểu và động viên nhân dân mình. Chặng đường làm thơ từ năm 1950 đến nay, như thế đã 50 năm, con đường dài lắm. Khi viết, tôi phải cố gắng kiếm những câu thơ trời cho. Công việc làm thơ cũng phải khổ luyện như người đi tìm trầm. Người ta phải ngậm ngãi tìm trầm. Trong thơ chữ nghĩa phải đàng hoàng, phải trong sáng, chữ nghĩa mang đậm nội dung của tâm hồn. Tâm hồn là mái nhà để thơ tìm ở. Mái nhà đây là mái nhà của người nghèo, của người lao động... Tôi viết chậm, thường nuôi một bài trong một quãng thời gian dài, đến lúc viết ra thì chỉ cần một đến hai giờ là xong”.
Từ năm 1956, khi ra ở Hà Nội, Nguyễn XuânThâm đã có dịp gần gũi nhà văn Hồ Dzếnh. Hồi đó, Hồ Dzếnh đang bán sách ở hiệu sách Bình Minh của ông. Ngày khai trường hằng năm, Hồ Dzếnh thường đem sách và văn phòng phẩm đến cho hai đứa con của Nguyễn Xuân Thâm. Nhà gần nhau, hai người có dịp trao đổi nhiều về văn thơ. Nhiều bài thơ của Nguyễn Xuân Thâm có bàn tay của Hồ Dzếnh sửa chữa. Nguyễn Xuân Thâm kể:
“Trong việc làm thơ, tôi được học nhiều ở bốn người thầy: Hồ Dzếnh, Xuân Diệu, Chế Lan Viên và Thanh Tịnh. Xuân Diệu chữa cho từng chữ cụ thể; Chế Lan Viên chỉ cho hướng chung; Thanh Tịnh chỉ cho đề tài; Hồ Dzếnh nhắc nhở làm thế nào cho câu thơ mềm mại. Quá trình tiếp xúc với bốn người thầy ấy làm cho tôi giàu có thêm về tâm hồn. Các người thầy ấy quá tốt, đúng là bốn thi sĩ. Anh Xuân Diệu dạy cho tôi nhiều nhất. Anh chữa cho từng chữ. Thậm chí có khi bài thơ của tôi được anh vẽ ra như một bức tranh:
Mùa thu này con dạy học ở Trung du
Sống trong ngôi nhà đá ong của mẹ
buổi sáng mẹ đi lấy nước thế nào, dáng nghiêng nghiêng ra sao...
Trong bài Đáy cá đêm, tôi viết:
Cá bạc đầy khoang khẳm lái êm.
Nhà thơ Xuân Diệu đề nghị chữa: Cá bạc vào khoang khẳm lái êm. Khi nhà thơ Tế Hanh đọc tập Đồng xanh đã khen chữ vào khoang ấy, chính là chữ của Xuân Diệu chữa. Tôi cũng học anh Huy Cận và được anh trao đổi, đọc thơ cho nghe. Huy Cận có câu thơ tài hoa: “Mưa xuân tưới tốt cả cây buồm”. Tôi thấy hay quá. Học Huy Cận, tôi viết: “Trăng chiếu tươi xanh cả ngọn sào”. Nhà thơ Xuân Diệu từng nói: “Chìa khóa thi ca Việt luôn luôn là tình yêu cuộc sống”. Đó là câu đầu tiên trong bài giảng đầu tiên của nhà thơ tại trường đại học Sorbonne ở Paris mà người thủ thư ở đây đã đưa cho tôi xem.
Có đi vào cuộc sống, gần gũi với nhân dân mới có thể viết được những bài thơ tốt”.
Năm 1955, khi học ở trường Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn Xuân Thâm cũng như anh chị em học sinh Bình Trị Thiên chúng tôi gặp rất nhiều khó khăn trong đời sống vật chất. Thời gian nghỉ giữa hai học kỳ, Nguyễn Xuân Thâm cùng Dương Vân Đình, Trần Quang Sừng (sau này là Thứ trưởng Bộ Công nghiệp nhẹ) và một số bạn khác lên rừng chặt củi, chặt nứa đóng bè băng qua các con thác dữ dội trên sông Lam xuôi về Vinh, bán cho bà con xây dựng lại thị xã sau cuộc chiến tranh chống Pháp, lấy tiền ăn học, chuẩn bị kì thi tốt nghiệp. Ở bài thơ Ghi chép của người đi bè, Nguyễn Xuân Thâm viết về tâm trạng của chính những người trong cuộc vật lộn gian lao ấy:
Thác dựng như thành xây;
Đá đen cũng sủi bọt
Bè đánh đã rã tay
Thác qua rồi lại thác.

Vòi Voi, bè qua ngay
Bãi xuyên ngang đá bày
Bọt trào lại nước xoáy
Chèo chống không hở tay.
Ở Ninh Bình 3 tháng để dạy cho công nhân vừa làm ra 15 loại đồ hộp, sau một tuần đã được Bộ Y tế cho phép lưu hành, Nguyễn Xuân Thâm viết được bài thơ Đứng trêncầu Chà La:
Tôi với mặt trời trưa đứng trên cầu Chà Là
Dưới kia thời gian chảy
Màu hoa bìm bìm chảy
Ngòai xa làng mạc lèn đá sông Đáy
Có mùi khói hun thuyền
Kỉ niệm đã dìm xuống lại vớt lên
Nỗi buồn còn ướt.
Nhiều bài thơ của Nguyễn Xuân Thâm để lại trong lòng người đọc những ấn tượng khá sâu sắc. Trống và lửa mang hơi rộn rịp, khẩn trương của các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên nhất tề đứng lên chống Mĩ cứu nước:
Trống giục lửa, lửa vào buôn, người Ê Đê cầm ná
Lửa vào làng, người Gia Rai vót chông
Lửa lên nương sáng ngọn mác Mơ Nông
Nghe tiếng trống người Hơ Rê băng rừng về như nước lũ
N’Trang Lơn cùng về từ Ba Ranh giới
Lửa anh hùng Núp chín năm trời đốt tranh ăn thay muối
Trống dội từ trong trường ca Xinh Nhã, Đam San.
Bài thơ Cái chết của em Dần được Nguyễn Xuân Thâm viết ngay sau khi nghe báo cáo vụ Mĩ ném bom xuống trường Hương Phúc ở Hà Tĩnh. Từ chi tiết cụ thể về hai củ khoai trong túi của em Dần khi em đã bị giết hại, nhà thơ đã diễn đạt một cách giản dị gây xúc động cho người đọc:
Em Dần chết chưa ăn cơm trưa
Em chết với hai củ khoai trong túi áo
Mẹ đào đất lên, đất chảy máu
Em Dần ơi sao mẹ gọi không thưa
Em chẳng còn, em mười tuổi mãi
Vạch em đo trên tường đêm nay dừng lại
Mười năm sau, mười năm nữa Dần ơi
Em chết rồi với hai củ khoai
Nhà thơ Tế Hanh kể lại khi dịch bài thơ này qua tiếng Pháp, nhà báo Pháp Madeleine Riffaud đọc đã nói: “Ở Pháp nếu buổi tối cha mẹ quên không cho trẻ con ăn mà nó đi ngủ, đó là điều đau khổ của cha mẹ. Còn em Dần chết chứ không phải ngủ quên, chết mà chưa ăn cơm trưa lại còn hai củ khoai trong túi áo là nỗi đau khổ của nhân loại”.
Người đọc có thể thấy rõ không khí man mác và cả nét cổ xưa trong bài Tuy lí vương phủ, Về thôn Vĩ. Vẫn hoa cau, nắng, áo trắng, ngõ xưa xanh biếc như trong thơ Hàn Mạc Tử mà vẫn có những nét riêng của Nguyễn Xuân Thâm:
Vườn cây bóng lá chiều mưa thưa
Làng chính làng ngày ta bé thơ
Áo trắng đi về đâu áo trắng
Vườn nắng ngày xưa thi sĩ xưa
Ngoài thơ, nhà thơ Nguyễn Xuân Thâm còn viết bút ký, truyện ngắn, hồi ký. Nguyễn Xuân Thâm luôn xác định mình còn phải đi trên con đường dài thăm thẳm của thơ, đi tìm những câu thơ trời cho và đi khắp nơi “mai thượng du nay đang biển mù” để:
Trái tim dầu dãi như lá cỏ
Gió lang thang đốt xém mùa qua
Cứ đi mãi chút gì còn đó
Cát bụi đường dài run rẩy thơ
(Đường dài)
 Hà Nội 10 - 2000

TRẦN PHƯƠNG TRÀ
(nguồn: TCSH số 152 - 10 - 2001)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • LGT: Vài năm lại đây, sau độ lùi thời gian hơn 30 năm, giới nghiên cứu văn học cả nước đang xem xét, nhận thức, và đánh giá lại nền “Văn học miền Nam” (1954 - 1975) dưới chế độ cũ, như một bộ phận khăng khít của văn học Việt Nam nửa sau thế kỷ XX với các mặt hạn chế và thành tựu của nó về nghệ thuật và tính nhân bản. Văn học của một giai đoạn, một thời kỳ nếu có giá trị thẩm mỹ nhân văn nhất định sẽ tồn tại lâu hơn bối cảnh xã hội và thời đại mà nó phản ánh, gắn bó, sản sinh. Trên tinh thần đó, chúng tôi trân trọng giới thiệu bài viết vừa có tính chất hồi ức, vừa có tính chất nghiên cứu, một dạng của thể loại bút ký, hoặc tản văn về văn học của tác giả Nguyễn Đức Tùng, được gửi về từ Canada. Bài viết  dưới đây đậm chất chủ quan trong cảm nghiệm văn chương; nó phô bày cảm nghĩ, trải nghiệm, hồi ức của người viết, nhưng chính những điều đó làm nên sự thu hút của các trang viết và cả một quá khứ văn học như sống động dưới sự thể hiện của chính người trong cuộc. Những nhận định, liên hệ, so sánh, đánh giá trong bài viết này phản ánh lăng kính rất riêng của tác giả, dưới một góc nhìn tinh tế, cởi mở, mang tính đối thoại của anh. Đăng tải bài viết này chúng tôi mong muốn góp phần đa dạng hóa, đa chiều hóa các cách tiếp cận về văn học miền Nam. Rất mong nhận được các ý kiến phản hồi của bạn đọc. TCSH

  • MAI VĂN HOAN giới thiệuNăm 55 tuổi, Hồng Nhu từng nhiều đêm trăn trở, băn khoăn lựa chọn việc trở về quê hay ở lại thành phố Vinh - nơi anh gắn bó trọn hai mươi lăm năm với bao kỷ niệm vui buồn. Và cuối cùng anh đã quyết tâm trở về dù đã lường hết mọi khó khăn đang chờ phía trước. Nếu không có cái quyết định táo bạo đó, anh vẫn là nhà văn của những thiên truyện ngắn Thuyền đi trong mưa ngâu, Gió thổi chéo mặt hồ... từng được nhiều người mến mộ nhưng có lẽ sẽ không có một nhà văn đầm phá, một nhà thơ “ngẫu hứng” như bây giờ.

  • LÊ HỒNG SÂMTìm trong nỗi nhớ là câu chuyện của một thiếu phụ ba mươi tám tuổi, nhìn lại hai mươi năm đời mình, bắt đầu từ một ngày hè những năm tám mươi thế kỷ trước, rời sân bay Nội Bài để sang Matxcơva du học, cho đến một chiều đông đầu thế kỷ này, cũng tại sân bay ấy, sau mấy tuần về thăm quê hương, cô cùng các con trở lại Pháp, nơi gia đình nhỏ của mình định cư.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ     (Đọc “Cạn chén tình” - Tuyển tập truyện ngắn Mường Mán, NXB Trẻ, 2003)Với gần 40 năm cầm bút, với hơn hai chục tác phẩm văn xuôi, thơ và kịch bản phim, nhà văn Mường Mán là một tên tuổi đã quen thuộc với bạn đọc, nhất là bạn đọc trẻ. Có lẽ vì ấn tượng của một loạt truyện dài mà ngay từ tên sách (Lá tương tư, Một chút mưa thơm, Bâng khuâng như bướm, Tuần trăng mê hoặc, Khóc nữa đi sớm mai v...v...) khiến nhiều người gọi ông là nhà văn của tuổi học trò, trên trang sách của ông chỉ là những “Mùa thu tóc rối, Chiều vàng hoa cúc...”.

  • NGUYỄN VĂN HOATranh luận Văn Nghệ thế kỷ 20, do Nhà xuất bản lao động ấn hành. Nó có 2 tập: tập 1 có 1045 trang và tập 2 có 1195 trang, tổng cộng 2 tập có 2240 trang khổ 14,4 x 20,5cm. bìa cứng, bìa trang trí bằng tên các tờ báo, tạp chí có tư liệu tuyển trong bộ sách này.

  • VĨNH CAO - PHAN THANH HẢIVườn Thiệu Phương là một trong những Ngự uyển tiêu biểu của thời Nguyễn, từng được vua Thiệu Trị xếp là thắng cảnh thứ 2 trong 20 cảnh của đất Thần Kinh. Nhưng do những nguyên nhân lịch sử, khu vườn này đã bị triệt giải từ đầu thời vua Ðồng Khánh (1886-1889) và để trong tình trạng hoang phế mãi đến ngày nay. Trong những nỗ lực nhằm khắc phục các "không gian trắng" tại Tử Cấm Thành và phục hồi các khu vườn ngự của thời Nguyễn, từ giữa năm 2002, Trung tâm BTDTCÐ Huế đã phối hợp với Hội Nghệ thuật mới (Pháp) tổ chức một Hội thảo khoa học để bàn luận và tìm ra phương hướng cho việc xây dựng dự án phục hồi khu vườn này.

  • HỒNG DIỆUNhà thơ Cao Bá Quát (1809-1854) được người đời hơn một thế kỷ nay nể trọng, với cả hai tư cách: con người và văn chương. "Thần Siêu, thánh Quát", khó có lời khen tặng nào cao hơn dành cho ông và bạn thân của ông: Nguyễn Văn Siêu (1799-1872).

  • HÀ VĂN THỊNHI. Có lẽ trong nhiều chục năm gần đây của lịch sử thế giới, chưa có một nhà sử học nào cũng như chưa có một cuốn sách lịch sử nào lại phản ánh những gì vừa xẩy ra một cách mới mẻ và đầy ấn tượng như Bob Woodward (BW). Hơn nữa đó lại là lịch sử của cơ quan quyền lực cao nhất ở một cường quốc lớn nhất mọi thời đại; phản ánh về những sự kiện chấn động nhất, nghiêm trọng nhất đã diễn ra trong ba năm đầu tiên của thiên niên kỷ mới: sự kiện ngày 11/9, cuộc chiến tranh Afganistan và một phần của cuộc chiến tranh Iraq.

  • ĐẶNG TIẾN     (Đọc Hồi ức của Đại tướng Võ Nguyên Giáp)Một tờ báo ở ngoài nước đã giới thiệu bốn cuốn hồi ức của Đại tướng Võ Nguyễn Giáp mới xuất bản. Dĩ nhiên là một bài báo không thể tóm lược được khoảng 1700 trang hồi ký viết cô đúc, nhưng cũng lảy ra được những đặc điểm, ý chính và trích dẫn dồi dào, giúp người đọc không có sách cũng gặt hái được vài khái niệm về tác phẩm.

  • NGUYỄN THỊ ANH ĐÀO       (Đọc tập truyện ngắn “Trà thiếu phụ” của nhà văn Hồng Nhu – NXB Hội Nhà văn 2003)Tôi đã được đọc không ít truyện ngắn của nhà văn Hồng Nhu và hầu như mỗi tập truyện đều để lại trong tôi không ít ấn tượng. Trải dài theo những dòng văn mượt mà, viết theo lối tự sự của nhà văn Hồng Nhu là cuộc sống muôn màu với những tình cảm thân thương, nhiều khi là một nhận định đơn thuần trong cách sống. Nhà văn Hồng Nhu đi từ những sự việc, những đổi thay tinh tế quanh mình để tìm ra một lối viết, một phong cách thể hiện riêng biệt.

  • ĐỖ QUYÊN…Đọc thơ Bùi Giáng là thuốc thử về quan niệm thơ, về mỹ học thi ca. Đã và sẽ không ai sai nhiều lắm, cũng không ai đúng là bao, khi bình bàn về thơ họ Bùi. Nhắc về cái tuyệt đỉnh trong thơ Bùi Giáng, độ cao sâu tư tưởng ở trước tác Bùi Giáng nhiều bao nhiêu cũng thấy thiếu; mà chỉ ra những câu thơ dở, những bài thơ tệ, những đoạn văn chán trong chữ nghĩa Bùi Giáng bao nhiêu cũng bằng thừa…

  • LÊ THỊ HƯỜNGTrong căn phòng nhỏ đêm khuya, giai điệu bản sonat của Beethoven làm ta lặng người; một chiều mưa, lời nhạc Trịnh khiến lòng bâng khuâng; trong một quán nhỏ bên đường tình cờ những khúc nhạc một thời của Văn Cao vọng lại làm ta bất ngờ. Và cũng có thể giữa sóng sánh trăng nước Hương Giang, dìu dặt, ngọt ngào một làn điệu ca Huế khiến lòng xao xuyến.

  • NGÔ MINHĐến tập thơ chọn Giếng Tiên (*), nhà thơ - thầy giáo Mai Văn Hoan đã gửi đến bạn yêu thơ 5 tập thơ trữ tình, trong đó có hai tập thơ được tái bản. Đó là tập đầu tay Ảo ảnh, in năm 1988, tái bản 1995 và tập Hồi âm, in năm 1991, tái bản năm 2000. 15 năm xuất bản 7 đầu sách (2 tập tiểu luận) và đang có trong ngăn kéo vài tập bản thảo tiểu luận nữa, chứng tỏ sức sáng tạo sung mãn đáng nể trọng của một thầy giáo vừa dạy học vừa sáng tác văn chương.

  • NGUYỄN THỊ ANH ĐÀO        (Đọc tập thơ ''Độc thoại trước mặt trời'' của Trần Lan Vinh- NXB Văn học Hà Nội- 2003)Trên thi đàn văn học Việt Nam hiện đại, sự thiếu vắng những cây bút nữ đã trở thành một vấn đề cần được chú trọng. Hầu như mỗi khi phụ nữ cầm bút, điều họ quan tâm nhất đó là sự giải bày tâm sự với ngàn ngàn nỗi niềm trắc ẩn. Nếu viết là một cách để sẻ chia tâm sự thì Trần Lan Vinh là một trường hợp như thế.

  • NGUYỄN THANH TÚMùa đông năm ngoái, anh Đoàn Tuấn từ Hà Nội vào Huế giảng dạy lớp đạo diễn điện ảnh. Dù công việc khá bận rộn nhưng anh vẫn dành cho tôi không ít thời gian tâm sự, bởi ngoài tình cảm thân thiết anh còn là cấp trên của tôi ở toà soạn tạp chí Thế Giới Điện Ảnh. Trong những lần trò chuyện ấy, tôi thật sự bất ngờ khi nghe anh kể chuyện về cuốn sách anh sắp in ở Nhà xuất bản Trẻ mà nội dung của nó là câu hỏi hơn 20 năm nay vẫn luôn canh cánh trong tôi. Vốn dĩ Đoàn Tuấn là nhà biên kịch điện ảnh tên tuổi, anh đã có nhiều kịch bản phim nổi tiếng như: Chiếc chìa khoá vàng (1998), Ngõ đàn bà (1992), Đường thư (2003)...

  • MAI VĂN HOANNguyễn Khoa Điềm đến với thơ hơi muộn nhưng đã sớm định hình một phong cách riêng. Qua các tập Đất ngoại ô (1972), Mặt đường khát vọng (trường ca, 1974), Ngôi nhà có ngọn lửa ấm (1986), Thơ Nguyễn Khoa Điềm (1990), Cõi lặng (2007) ta bắt gặp những suy ngẫm của anh đối với nhân dân, đất nước; những chiêm nghiệm của anh về đời sống xã hội, nhân tình thế thái. Những chiêm nghiệm và suy ngẫm đó được thể hiện bằng một giọng thơ trầm tĩnh, bình dị, sâu lắng và khá hiện đại.

  • NGUYỄN QUANG HÀ       (Đọc Nỗi niềm để ngỏ của Lê Lâm Ứng - Nhà xuất bản Văn học 2002)Đọc thơ Lê Lâm Ứng để tìm những câu mượt mà thì hơi khó. Thảng hoặc lắm mới bắt gặp ở anh tâm trạng thư thái này:                Biết rằng trong cõi nhớ thương                Lạc nhau âu cũng lẽ thường vậy thôi

  • MAI VĂN HOANNguyễn Đắc Xuân không chỉ có chân trong Hội Nhà văn Việt Nam mà anh còn là hội viên Hội Lịch sử Việt Nam, hội viên Hội Nhà báo Việt Nam... Nhưng dù ở cương vị nào thì điều mà anh tâm huyết nhất vẫn là lịch sử và văn hóa Huế.

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG   (Nhân đọc sách "Gió về Tùng Môn Trang" của Nguyễn Xuân Dũng)Tác giả cuốn sách này là một võ sư đệ bát đẳng huyền đai thuộc phái không thủ đạo, vừa là một nhà hoạt động thương trường nổi tiếng ở Mỹ. Nhưng cuốn sách này không hề bàn đến chuyện đấm đá hơn kém hoặc là chuyện mua bán lời lỗ mà bàn về cái TÂM. Tác giả tỏ ra hết sức chú trọng vũ đạo; nhất cử nhất động đều phải xuất phát từ cái TÂM, cái TÂM viết hoa.

  • TRẦN THUỲ MAI            (Đọc Uẩn khúc, tiểu thuyết của Hoàng Văn Bàng, NXB Thuận Hoá 2002)Câu chuyện xảy ra ở một vùng quê không xa lắm, với một tầm mức tai hại không lớn, gây một ảnh hưởng mới xem qua tưởng chừng không đáng kể. Một ông trưởng phòng ở huyện tham ô vài chục triệu thì đã thấm gì so với những câu chuyện động trời hàng ngày trên các báo, mà thủ phạm mang những chức tước lớn lao hơn, với những số tiền khổng lồ tới hàng nghìn tỉ!