Nguyện vọng cuối cùng

16:10 01/09/2008
ALEXANDER VAMPILOV (NGA)Nikolai Nikolaevich Smirnov tin chắc là ông không sống được đến mùa xuân sang năm.

- Bố sắp chết rồi, - ông thờ dài nói và nhìn cô con gái Lidia Nikolaevna đang quét dọn phòng cho ông bằng ánh mắt có lỗi.
- Bố cứ nói vớ vẩn! Bố còn sống đến trăm tuổi, - Lidia Nikolaevna vừa lau bụi ở giá sách vừa đáp lại một cách máy móc.
Sống đến trăm tuổi cũng chẳng còn mấy nả.
Đến đầu thu Nikolai Nikolaevich cảm thấy ông hoàn toàn không thể đi lại được nữa.
Chỉ sự bất lực hết mức và sự tuyệt vọng cùng cực mới làm nảy sinh ý muốn chết. Vào cái tuổi già nua, sức tàn lực kiệt, Nikolai Nikolaevich còn có một hy vọng, và một ước muốn cháy bỏng như hồi còn trẻ để hy vọng đó thành sự thực. Ông muốn sống đến mùa xuân. Muốn được thêm một lần nhìn thấy bông tử đinh hương cắm trên bàn, nghe thấy tiếng chim hót mùa xuân, ông muốn được ở trong thiên đường màu xanh - trong rừng bạch dương đã bắt đầu nhú hầu như ngay lập tức dưới cửa sổ phòng ông.
Nhưng bên ngoài cửa sổ chỉ có ngọn lửa nhợt nhạt của hoàng hôn mùa thu quét lên hàng cây bạch dương, tiếp liền sau đó là tháng chạp mùa đông nghiệt ngã lồng lộn ập đến. Những cơn bão tuyết hớt hơ hớt hải tru lên thảm thiết như tiếng kêu ai oán của một linh hồn cô lẻ, bị bỏ rơi, khiến trái tim thổn thức nhớ những ngày xuân âu yếm, dịu dàng.
Nikolai Nikolaevich sống cùng con gái. Chồng Lidia Nikolaevna đã mất, các đứa con cô đều đã lớn, đã có gia đình riêng sống ở các nơi. Nikolai Nikolaevich biết rằng khi ông mất rồi, Lidia Nikolaevna sẽ về sống với thằng con cả.
Chiều chiều Lidia Nikolaevna ngồi bên mép giường bố hỏi han xem ông muốn gì. Nikolai Nikolaevich trả lời là ông không muốn gì cả, lẽ ra ông phải chết từ lâu rồi mới phải, ông nói là ông đã làm khổ cô quá nhiều, nhưng cô không phải chịu đựng lâu nữa đâu. Lidia Nikolaevna bực tức bố khóc nấc lên. Thấy thế Nikolai Nikolaevich cố nhúc nhích đôi tay gần như đã cạn hết máu của mình ra hiệu, Lidia Nikolaevna thận trọng gục đầu vào ngực bố khóc thầm, còn trên khuôn mặt nhăn nheo của Nikolai Nikolaevich ứa ra vài ba giọt lệ hiếm hoi của tuổi già.
Các bác sĩ có đến, nhưng Nikolai Nikolaevich cho là họ không chữa trị cho ông mà chỉ làm ra vẻ có chữa vậy thôi. ''Các anh biết, mà tôi cũng biết: bệnh già thì không chữa được'' - ông bảo họ vậy.
Một hôm anh con trai Sergei đến thăm ông. Sergei Nikolaievich là một người rất nghiêm trang và bận rộn. Anh ta không thể đến thăm bố thường xuyên được.
Anh ta đến vào lúc chiều muộn, nách cắp cặp, không cởi quần áo, mà chỉ bỏ mũ ra vò vò trong đôi tay rắn chắc.
Trước khi anh con trai ra về, Nikolai Nikolaevich cố nói một câu đùa, nhưng nghe ra đó hoàn toàn không đùa chút nào.
- Bố không muốn chết vào mùa đông, - ông nói. – Bố muốn rời bỏ thế giới này giữa lúc hoa nở để lưu lại ấn tượng đẹp về nó.
- Bố còn khỏe chán. Bố với con còn thi nhau được đấy, - Sergei mỉm cười nói, nhưng Nikolai Nikolaevich cảm thấy câu nói của anh con thật nhạt nhẽo, vô hồn.
Nikolai Nikolaevich căm thù mùa đông vì mùa đông chỉ tốt cho những người khỏe khoắn, mạnh mẽ, vì mùa đông không thể mở cửa sổ, vì mùa đông kéo lê thê quá dài. Ông cảm thấy không phải tuổi già, mà chính là mùa đông đã tước đoạt của ông tất cả mọi thứ và chỉ để lại một ít hồi ức - hồi ức cũng làm sức yếu đi, song chúng còn khiến ông thấy buồn bã, dễ chịu.
Nhưng mà Nikolai Nikolaevich cũng không thể quen sống chỉ bằng các hồi ức không thôi. Ông đợi mùa xuân về.
Và xuân đã về đây. Nikolai Nikolaevich từ lâu nay đã để ý ngắm nhìn một cành thông lớn sà vào cửa sổ phòng ông. Vào giữa một trưa tháng ba ấm áp, cái cành cây đó đã rũ chiếc mũ tuyết trắng đường bệ, thực ra đã thủng lỗ chỗ từ lâu, ra khỏi mình.
Nikolai Nikolaevich bảo đặt mình vào ghế bành và ngồi hồi lâu bên cửa sổ.
Ngoài trời, mùa đông lần lượt rút lui khỏi các vị trí của mình. Thoạt đầu những lối đi băng qua khu rừng bị chân nhiều người qua lại dẫm lên ngả màu đen, sau đó bắt đầu xuất hiện những vệt vàng ở nơi tuyết đã tan, cuối cùng toàn bộ mặt đất hiện ra trước mắt tinh khôi như hôm bông tuyết đầu mùa mới rơi xuống.
- Trời đẹp rồi. - Lidia Nikolaevna nói và bắt đầu mở cửa sổ khi cánh rừng nhìn từ xa đã chớm nẩy màu xanh.
Nhưng tâm hồn Nikolai Nikolaevich chưa có được niềm vui mà ông chờ đợi khi xuân về. Điều ông chờ đợi đã đến, nhưng đó chưa phải là điều ông mong muốn. Ông muốn sống.
''Mùa xuân rồi sẽ qua, - ông nghĩ, - những bông hoa sẽ khô héo, còn cuộc sống sẽ vẫn tiếp tục. Cuộc sống bao giờ và ở đâu cũng tươi đẹp: trong vườn hoa, trên con đường bão tuyết tràn qua, ngay cả ở bên cửa sổ ngồi trong một chiếc ghế bành không thể đứng lên được". Bên một cây bạch dương to già chiều nào cũng có một cô gái và một chàng trai hẹn hò, tâm sự.
Nikolai Nikolaevich thích quan sát các cuộc hẹn này, ông đã quen với chúng, thường nghĩ về chúng. Hầu như chiều nào ông cũng bảo Lidia Nikolaevna: "Lida, con hãy đặt bố cạnh cửa sổ, khéo không bố muộn cuộc hẹn đấy'' - và ông chăm chú nhìn vào cánh rừng cho đến khi hoàng hôn buông xuống và hai bóng người xuất hiện bên gốc bạch dương già. Thậm chí đôi khi ông mơ thấy họ trong cảnh thế này: cô gái ngồi tựa lưng vào thân cây bạch dương, còn chàng trai đứng tì đầu vào một cành to, hai tay ôm đầu, mắt nhìn thẳng cô gái.
Một thời gian sau Nikolai Nikolaevich nhận thấy cặp tình nhân đột nhiên đến cánh rừng vào những lúc khác nhau. Căn cứ vào các dấu hiệu thì chắc đã có sự bất hoà xảy ra giữa hai người.
"Ôi những con người hạnh phúc và ngốc nghếch biết bao. - Nikolai Nikolaevich nghĩ. - Họ đau khổ, họ chọn những lúc khác nhau để chỉ đến một cánh rừng ấy. Nhưng họ còn trẻ, và trời sao trên đầu họ vẫn còn nguyên đấy".
Vào ngày oi bức ngột ngạt đầu tiên, trước cơn giông đầu tiên, tuổi già và bệnh tật đã bước đến bên giường Nikolai Nikolaevich, chìa những bàn tay móng vuốt về phía ông. Nikolai Nikolaevich cảm thấy nghẹt thở.
- Lida, - ông cất tiếng gọi, trong khi cố căng mắt nhìn cho rõ bộ mặt tái nhợt của cô con gái, - gọi Sergei đến ngay. Bây giờ là lần cuối...
Một tiếng sấm nổ vang, ngoài cửa sổ vũ diệu điên cuồng của thiên nhiên bắt đầu. Gió thổi thốc nước vào kính cửa sổ. Cánh rừng rền rĩ, gầm gào, nức nở. Thái dương Nikolai Nikolaevich đập mạnh, nhưng thở đã dễ hơn.
Khi cơn giông tạnh, Nikolai Nikolaevich cảm thấy người nhẹ nhõm, khoan khoái đến mức ông bất thần ngồi dậy trên giường và cất giọng kêu to:
- Cho bố ra cửa sổ.
Lidia Nikolaevna sợ hãi phản đối.
- Đặt bố vào ghế! - Nikolai Nikolaevich nhắc lại một cách kiên quyết. - Và mở to cửa sổ ra. Bố khỏe rồi, bố thấy mình như thanh niên ấy.
Ông ngồi bên cửa sổ mỉm cười, quả thật tâm hồn ông sung sướng và thanh thản cứ như ông mới hai mươi tuổi và vừa làm lành với người yêu xong.
Cơn dông đi qua - đó là ngày hội của tất cả thế giới màu xanh. Mặt trời chưa lặn và cánh rừng vừa nẩy lộc hân hoan tràn ngập trong ánh nắng. Nikolai Nikolaevich thấy ở những cái cây gần kề bên cửa sổ những chiếc lá dưới thấp rùng mình vì các giọt nước từ lá ướt phía trên rơi xuống.
Bên cây bạch dương già đã có chàng trai đứng. Nikolai Nikolaevich nhìn vào chiếc đồng hồ mà lâu nay ông đã bảo đem đặt ở bậu cửa sổ. Chàng trai sắp bỏ đi rồi, mà phải nửa giờ nữa cô gái mới đến.
Vừa lúc Sergei thở hổn hển đầy lo lắng bước vào.
- Bố? Bố sao rồi? - anh hỏi và bước nhanh đến bên chiếc ghế bành. Hai bố con hôn nhau.
- Bố gọi con đến, Serioja. - Nikolai Nikolaevich bình tĩnh nói.
- Bố cảm thấy mình... - Nikolai Nikolaevich ngừng lời, quay mặt ra cửa sổ và nhìn vào cánh rừng một lúc.
Khi ông quay lại nhìn con trai, mắt vui vẻ, linh lợi khác thường mà lâu nay không còn thấy của ông bố đã khiến Sergei Nikolaevich kinh ngạc. Nikolai Nikolaevich nói khẽ:
- Serioja, con có thấy chàng trai đứng ở cánh rừng đằng kia không? Bên cây bạch dương lớn ấy. Con hãy đi đến đấy bảo anh ta nán lại đó thêm nửa giờ nữa... - Và, nhìn vẻ mặt băn khoăn của Sergei Nikolaevich, ông tiếp: - Đúng, đúng. Con hãy đến đấy bảo anh ta là việc này rất cần. Cứ nán đợi.
- Bố! - Sergei Nikolaevich lo lắng lên tiếng.
- Không, không... Bố vẫn tỉnh táo... - Nikolai Nikolaevich ngắt lời. - Đi đi! Bố nhờ con... đi đi!
Sergei Nikolaevich nhún vai, nhìn quanh rồi bước ra khỏi phòng.
Cửa sổ đã mở rộng, căn phòng tràn ngập mùi hương không thể có lại của cánh rừng bạch dương vừa được tắm mình dưới cơn dông.
Nikolai Nikolaevich ngồi trong ghế bành, khẽ nghiêng người sang một bên. Khuôn mặt ông đầy vẻ thanh thản, thấu triệt.
Khi quay trở lại Sergei Nikolaevich chưa nhận ra ngay là Nikolai Nikolaevich đã chết.
NGÂN XUYÊN
dịch từ nguyên bản tiếng Nga

(nguồn: TCSH số 161 - 07 - 2002)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • HANS CHRISTIAN ANDERSON   

    Hans Christian Andersen sinh tại Odense, Đan Mạch, thuộc gia đình bình dân, cha là thợ đóng giày, mẹ là thợ giặt. Tuy gia cảnh tầm thường, cha ông lại say mê văn học, ông có cả một tủ sách văn học quý giá. Từ sau khi cha qua đời (năm Andersen 11 tuổi), cậu bé đã được thỏa thích đọc những quyển sách cha để lại.


  • George Saunders - Franz Kafka

  • Brazil, nhà văn danh tiếng Jorge Amado nói, không phải là một quốc gia mà là một lục địa. Trong phần đóng góp mới nhất của loạt nhà văn trẻ xuất sắc được tạp chí Granta giới thiệu, họ kể những câu chuyện rộng lớn và hấp dẫn của xã hội Brazil hiện đại và ai là tương lai của nó; trong những nhà văn chưa từng được dịch và giới thiệu này góp mặt có Ricardo Lísias đã xuất bản hai tiểu thuyết rất hấp dẫn người đọc.
    Xin chuyển dịch sang Việt ngữ từ bản dịch sang Anh ngữ của Daniel Hahn: “My chess teacher”.
                                  Dương Đức dịch và giới thiệu

  • Daly sinh trưởng tại thành phố Winchester, bang Indiana, Hoa Kỳ. Ông có bằng Cử nhân Văn chương của đại học Ohio Wesleyan University và bằng Bác sĩ Y khoa của đại học Indiana University. Trong 35 năm, ông là bác sĩ phẫu thuật tại Columbus, Indiana. Ông từng là một bác sĩ phẫu thuật cấp tiểu đoàn trong chiến tranh Việt Nam.

  • AMOS OZ

    Sáng sớm, khi mặt trời chưa mọc, tiếng gù của đôi chim bồ câu trong bụi cây bắt đầu trôi qua ô cửa sổ để mở.


  • ALBERTO MORAVIA

  • KATHERINE MANSFIELD (Anh)     

    Thời tiết thật tuyệt vời. Người ta sẽ không có một bữa tiệc ngoài trời hoàn hảo hơn nếu họ không tổ chức tiệc vào ngày hôm nay.

  • Shun Medoruma (sinh năm 1960) là một trong những nhà văn đương đại quan trọng nhất của Okinawa, Nhật Bản. Ông được giải Akutagawa Prize năm 1997 với truyện ngắn “Giọt nước” (Suiteki).

  • Có lẽ tác giả tâm đắc lắm với truyện này nên mới chọn để đặt tên cho cả tuyển tập. “The Persimmon Tree, and Other Stories (1943)” gồm 15 truyện ngắn, góp phần mang lại chỗ đứng vững vàng trong văn đàn nước Úc cho nhà văn nữ Marjorie Barnard (1897-1987), người có thể sáng tác nhiều thể loại khác nhau, kể cả phê bình và lịch sử.

  • MARK TWAIN  

    M. Twain (1835 - 1910) là nhà văn lớn của Mỹ, từng phải lăn lóc nhiều nghề lao động chân tay trước khi trở thành nhà văn, do đó văn của ông rất được giới lao động ưa chuộng.

  • L. TOLSTOY

    Các anh em từng nghe nói rằng: mắt đền mắt, răng đền răng; còn ta nói với các anh em rằng: đừng chống lại kẻ ác. (Phúc Âm theo Matthiew V, 38, 39).

  • VẠN CHI (Trung Quốc)

    Tôi nhớ hình như ở đây có một bến ô tô buýt. Phải, phải rồi, ngay chỗ giờ đây cô gái kia đang đứng, dưới ngọn đèn đường ảm đạm ấy. Tôi thong thả bước tới, hỏi thăm.

  • Peter Bichsel sinh tại Lucerne (Thụy Sĩ) ngày 24 tháng 3 năm 1935, là con của một người thợ thủ công. Ông là nhà giáo dạy tại một trường tiểu học cho tới năm 1968.

  • Chitra Banerjee Divakaruni sinh năm 1957 tại Calcutta, Ấn Độ. Bà học đại học tại Đại học Calcutta. Năm 1976, bà đến Mỹ học thạc sĩ và tiến sĩ, sau đó dạy văn chương tại các đại học ở đó. Bà làm thơ, viết tiểu thuyết và truyện ngắn, được trao nhiều giải thưởng văn học. Ngoài ra bà còn sáng lập tổ chức Maitri chuyên trợ giúp phụ nữ Nam Á bị xúc phạm.

  • SAKI   

    1. Saki là bút hiệu của nhà văn Hector Hugh Munro (1870 - 1916), sinh tại Miến Điện (nay là nước Myanmar) khi nước này còn là thuộc địa của Anh.

  • Kevin Klinskidorn trưởng thành ở Puget Sound - một vùng ven biển tây bắc bang Washington và hiện sống ở bờ đông tại Philadelphia. Anh đã được giải thưởng Nina Mae Kellogg của đại học Portland State về tác phẩm hư cấu và hiện đang viết tiểu thuyết đầu tay.

    Truyện ngắn dưới đây của anh vào chung khảo cuộc thi Seán Ó Faoláin do The Munster Literature Center tổ chức năm 2015.

  • NAGUIB MAHFOUZ  

    Naguib Mahfouz là nhà văn lớn của văn học Arab. Ông sinh năm 1911 tại Cairo (Aicập) và mất năm 2006 cũng tại thành phố này. Mahfouz đã viết tới 34 cuốn tiểu thuyết và hơn 350 truyện ngắn. Cuốn tiểu thuyết lớn nhất của ông là Bộ ba tiểu thuyết (The trilogy) (1956 - 1957).
    Mahfouz được trao giải Nobel văn chương năm 1988.

  • Pete Hamill sinh ngày 24 tháng 6 năm 1935, tại Brooklyn, New York, Hoa Kỳ. Ông là nhà văn, nhà báo. Ông đi nhiều và viết về nhiều đề tài. Ông từng phụ trách chuyên mục và biên tập cho báo New York Post và The New York Daily News.

  • Truyện này được dịch theo bản tiếng Pháp nên chọn nhan đề như trên (Je ne voulais que téléphoner, trong cuốn Douze Contes vagabonds, Nxb. Grasset, 1995) dù nó có vẻ chưa sát với nguyên bản tiếng Tây Ban Nha của tác giả (Sole Vina a Hablar por Teléfono) - Tôi chỉ đến để gọi điện thoại thôi.

  • Eugene Marcel Prevost, nhà văn và là kịch tác gia người Pháp, sinh ngày 1/5/1862 tại Paris, mất ngày 8/4/1941 tại Vianne, thuộc khu hành chính Lot- et-Garonne. Năm 1909, ông được mời vào Hàn lâm viện Pháp.