Nguyễn Phi Khanh và bài thơ "Hóa thành Thần Chung"

15:25 19/03/2024

LÊ NGUYỄN LƯU

Sợi xích chằng buộc mối tơ duyên giữa công chúa Huyền Trân và quốc vương Chế Mân năm 1306 đã đưa vào bản đồ Đại Việt một vùng sông núi thuộc hai châu Ô Rí (1), nhà Trần đổi tên thành châu Thuận, châu Hóa, thường gọi chung Thuận Hóa.

Ảnh: tư liệu

Đây là nơi địa đầu giới tuyến suốt từ thế kỷ XIV đến đầu thế kỷ XV, đã phải chịu nhiều phen khói lửa, cho nên các triều đại đều xem như trọng trấn, cử những văn thần võ tướng lừng danh vào kinh lược, chẳng hạn Đoàn Nhữ Hài, Trương Hán Siêu, Hoàng Hối Khanh, Đặng Tất, Lê Khôi, Lê Chuyết... Đặc biệt Hồ Quý Ly rất quan tâm về phương Nam; ngoài việc xây dựng Tây Đô, ông còn dốc sức khai thác Thuận Hóa với ý đồ lập một hậu cứ vững chắc để nếu thất bại ở miền Bắc thì rút vào cố thủ.(2)

Trải qua thời gian dài, bàn tay cần cù của nông dân đã dần dần tạo nên vẻ phong quang cho vùng đất mới, và non nước Thuận Hóa cũng đã đi vào thơ ca của dân tộc. Chúng tôi xin giới thiệu một trong rất ít bài thơ sớm nhất làm cách đây khoảng sáu trăm năm, bài (Hóa thành Thần Chung) (Chuông sớm ở Thành Hóa) của Nguyễn Phi Khanh, vì có vấn đề cần bàn lại. Bài ấy như sau:

Viễn viễn tòng tăng tự
Sơ sơ lạc khách bồng
Triều sinh thiên địa hiểu
Nguyệt bạch hựu giang không.

Dịch xuôi: (Tiếng chuông) từ ngôi chùa xa xa văng vẳng lọt vào mái thuyền người xa xứ. Nước dâng lên, trời đất sáng rạng; vầng trăng vằng vặc lại thêm mặt sông mênh mông.

Tạm dịch thơ:

Thăm thẳm chùa đâu đó
Chuông ngân lọt mái bồng
Nước dâng trời đất rạng
Trăng tỏ dãi đầy sông.

Tên Hóa thành, trên Nam phong tạp chí số 145 tháng 4-1927, Đinh Văn Chấp dịch là Thành Huế, còn sách Thơ văn Lý Trần (3) thì chú "chưa rõ nơi nào". Dĩ nhiên thành Hóa không phải là thành Huế, dịch như Đinh Văn Chấp dễ khiến người ta lầm thành Hóa ngày xưa ở gần biển và thành Huế ở trung lưu sông Hương vẫn tồn tại đến bây giờ. Lại có người (?) cho rằng thành Hóa trong bài thơ trên là ở một ngọn núi gần Hoàng Giang thuộc phủ Thiên Trường, nơi phát tích của Hoàng tộc nhà Trần. Nguyễn Phi Khanh quả có lần đến vùng này và để lại bài thơ Hoàng Giang dạ vũ (mưa đêm ở sông Hoàng). Nhưng điều đó chưa đủ để kết luận thành Hóa ở Hoàng Giang. Vậy, Hóa thành chính xác ở đâu? Để trả lời câu hỏi này, chúng ta nên xem lại tiểu sử của nhà thơ.

Nguyễn Phi Khanh vốn tên Ứng Long, gốc ở xã Chi Ngại, huyện Phượng Nhãn, trấn Kinh Bắc (nay huyện Chí Linh tỉnh Hải Hưng), sinh tại xã Nhị Khê, huyện Thượng Phúc trấn Sơn Nam thượng (nay huyện Thường Tín tỉnh Hà Sơn Bình). Thời trẻ, ông ở Thăng Long dạy cô Trần Thị Thái, con gái quan tư đồ Trần Nguyên Đán thuộc tôn thất nhà Trần. Hai thầy trò đem lòng yêu nhau. Cô Thái mang thai, kết quả mối tình vụng trộm; ông sợ hãi bỏ trốn. Trần Nguyên Đán biết chuyện, sai người tìm về khuyên bảo, cho sum vầy gia thất. Ít lâu sau, cô Thái sinh con đầu lòng là Nguyễn Trãi, rồi Ứng Long đi thi, đỗ tiến sĩ khoa Giáp Dần năm 1374, khoảng 20 tuổi(4). Khoa này có 50 người trúng cử, trong đó có trạng nguyên Đào Sư Tích, bảng nhãn Lê Hiến Phủ, thám hoa Trần Đình Thâm(5).

Vì cớ ông là bình dân mà lấy vợ hoàng tộc, thượng hoàng Nghệ Tông không cho làm quan, mãi đến triều Hồ mới được bổ dụng. Ông đổi tên Phi Khanh, từ chức học sĩ viện Hàn lâm thăng dần lên đến tu nghiệp Quốc tử giám. Khi giặc Minh xâm lược (1407), ông bị bắt đưa sang Kim Lăng. Theo gia phổ tại xã Nhị Khê, ông mất ở Kim Lăng năm 1428, thọ 73 tuổi (như vậy thì ông sinh năm 1355). Không rõ ông có kịp thấy sự nghiệp vẻ vang của con chăng?

Nguyễn Phi Khanh để lại một tập thơ được chép trong c Trai thi tập dưới nhan đề Nhị Khê thi tập. Trong đó, qua một số bài, ông than thở về nỗi "tấm thân hồ hải" lênh đênh nơi góc bể chân trời, làm kẻ lữ hành nơi thôn xa xóm quạnh. Những bài này được sáng tác vào thời gian nào? Dĩ nhiên ông không thể đi lang thang như thế trước khi ngồi dạy học tại nhà quan tư đồ, và còn bé và phải "dùi mài kinh sử"; cũng không thể lưu lạc dưới đời Hồ sau năm 1402, vì đã làm quan tại kinh đô. Lại sau khi thi đỗ, tuy không được xuất sĩ, nhưng ông cũng đã có nơi nương tựa, thưởng theo hầu bố vợ, làm thơ thú ứng hoặc tại Thăng Long, hoặc về Côn Sơn, Trần Nguyên Đán mất (1390), ông đem vợ con về Nhị Khê, và có đi đó đi đây ít nhất trong mười năm (theo câu "Hồ hải thập niên tình” trong bài Hoàng Giang dạ vũ). Nhưng ông không thể đi xa, chỉ loanh quanh ở đồng bằng sông Hồng để thỉnh thoảng về nhà chăm sóc con cái và làm nhiều bài thơ thôn cư (ở nơi làng xóm).

Chỉ khi trốn tránh gia pháp nhà quan tư đồ do mối tình vụng trộm, mang tội chết như chơi, chàng trai chưa đầy hai mươi tuổi mới cần phải đi biệt xứ, mai danh ẩn tích để không ai tìm bắt lại được. Trong tình hình hiểm nghèo ấy, làm sao ông dám về ngay Thiên Trường, thang mộc ấp của nhà Trần! Cho nên, lênh đênh trên thuyền, ông đi dần vào Nam, để rồi đặt chân đến Hóa Châu và làm thơ vịnh. Một số bài trong Nh Khê thi tập được sáng tác ngay trên thuyền, hẳn cũng ra đời trong chuyến đào tẩu này.

Ngay bản thân bài Hóa thành thần chung, tuy hình ảnh miêu tả không lấy gì cụ thể lắm như đặc trưng chung của loại thơ Đường luật, nhưng nét chính cũng là cảnh sông nước mênh mông mường tượng cảnh Hóa thành mà sau này Dương Văn An miêu tả năm 1553 trong sách Ô châu cận lục: “Sông Cái Kim Trà rót vào phía nam, đập lớn chằm to ước nghìn vạn khoảnh. Các dòng nước bọc cả bốn bề, giữa có một tòa thành trăm dặm sừng sững như đám mây dài...” Đọc những dòng này, chúng ta quả thấy phù hợp với câu thơ:

Triều sinh thiên địa hiểu
Nguyệt bạch hựu giang không.

Ngồi trên thuyền giữa vùng sông nước bao la ấy, Nguyễn Phi Khanh nghe văng vẳng những tiếng chuông từ xa, chẳng khác gì Trương Kế đời Đường ở bến Phong Kiều:

Cô Tô thành ngoại Hàn Sơn tự,
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyn.

Tản Đà dịch:

Thuyền ai đậu bến Cô Tô
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn Sơn.

Chúng ta dễ dàng nghĩ rằng những tiếng chuông ngân nga ấy xuất phát từ chùa Sùng Hóa bên kia sông, ở xã Triêm An phía tây nam Hóa Thành. Đây là quê hương của Đặng Tất (? - 1409) và con là Đặng Dung (? - 1413), những danh nhân đời Hồ và hậu Trần, nay còn ngôi đền thờ biển ngạch ghi "Đặng quốc công từ". Ngôi chùa Sùng Hóa trải qua hàng trăm năm tồn tại, Dương Văn An cũng có nhắc tới trong Ô châu cận lục, đến cuối thế kỷ XVI thì đổ nát hoang tàn, Nguyễn Hoàng cho trùng kiến năm 1602, bấy giờ cùng "tề danh" với chùa Thiên Mụ (trùng hưng năm 1601).

Như vậy, chúng ta có cơ sở để tin chắc rằng Nguyễn Phi Khanh đã có lần đặt chân đến Thuận Hóa trong thời gian trốn bỏ nhà Trần Nguyên Đán vì cái tội "phạm thượng", khoảng 1372-1374. Một anh học trò hèn mà dám tư tình với cô gái lá ngọc cành vàng! Thành Hóa châu ở Ngã ba Sình chính là đối tượng ông miêu tả trong bài thơ Hóa thành thần chung, chứ không có một Hóa thành nào khác.

L.N.L
(TCSH57/09&10-1993)

--------------------------
(1) Một số sách quốc ngữ phiên âm là chữ Lí. Chúng tôi nghĩ phải đọc Rí mới đúng, vì thư tịch cổ viết với chữ Lí kèm bộ khẩu theo lối nôm. Nếu là Lí thì thêm bộ khẩu làm gì cho phiền phức (tiếng Hán không có âm đầu R).
(2) Để xây đựng căn cứ miền Nam, Hồ Quý Ly một mặt cử các võ tướng hoặc các nhà khoa bảng vào trấn thủ (trong đó có vị là khai canh làng xóm ở Thuận Hoá như Đỗ Tử Trừng, Hoàng Hồi Khanh...), một mặt đẩy mạnh cuộc Nam tiến, chiếm thêm đất Chăm-Pa. Quả nhiên về sau, mặt trận miền Bắc vỡ, cha con họ Hồ trốn vào Nam và bị bắt ở Nghệ An.
(3) Tập 3, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1978, Tr. 473.
(4) Ở đây có một nghi vấn. Nếu Nguyễn Phi Khanh đỗ tiến sĩ năm 1374 thì Nguyễn Trãi sinh trước đó ít lâu chứ không phải năm 1380 như các sách thường ghi. Còn như nếu Nguyễn Trãi sinh năm 1380 thì Nguyễn Phi Khanh phải thi đỗ năm 1381, là năm sử chép có một khoa thái học sinh. Chúng tôi cho rằng Nguyễn Trãi sinh khoảng 1373-1374.
(5) Tên những vị này được chép trong ĐVSKTT, VSTGCM. Sách Nguyễn Trãi toàn tập (Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1976, Tr. 12) dựa vào gia phả tại làng Nhị Khê, nói Nguyễn Phi Khanh đỗ đệ nhất giáp đệ nhị danh tức bảng nhãn, chắc không đúng.

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGÔ TỰ LẬP1.Platon nói rằng không thể có sự bình đẳng của những kẻ vốn không bình đẳng về mặt năng lực tự nhiên. Đó là xã hội người, nhưng chúng ta cũng có thể nói tương tự như vậy về xã hội từ ngữ.

  • ĐÀO DUY HIỆP    “Hội làng mở giữa mùa thu     Giời cao gió cả giăng như ban ngày”                                            (Nguyễn Bính)

  • YURI BONDAREVTên tuổi của nhà văn Nga Yuri Bônđarép rất gần gũi với bạn đọc Việt Nam qua những tác phẩm nỗi tiếng của ông đã được dịch ở ta vào thập kỷ 80 như: "Các tiểu đoàn xin chi viện", "Tuyết bỏng", "Bến bờ", "Lựa chọn", "Trò chơi"... Là một trong những nhà văn Xô Viết hàng đầu miêu tả hùng hồn và chân thực chủ nghĩa anh hùng cách mạng của quân và dân Liên Xô trong cuộc chiến tranh vệ quốc thần thánh chống phát xít Đức 1941- 1945, Bônđarép đã được phong Anh hùng lao động xã hội chủ nghĩa, được tặng giải thưởng Lênin, các giải thưởng Quốc gia, giải thưởng Lép Tônxtôi và M.Sôlôkhốp, giải thưởng toàn Nga "Xtalingrát"...

  • TRẦN ĐÌNH SỬVăn học Trung Quốc trong cơ chế thị trường đã có những biến đổi khá lớn. Theo các tác giả của sách Văn học Trung Quốc thế kỷ XX xuất bản tại Quảng Châu năm 1988 có thể nắm được một đôi nét diện mạo, chứng tỏ văn học Trung Quốc không còn có thể tồn tại theo phương thức cũ. Cơ chế thị trường đã làm cho nhà văn và nhà phê bình phải suy tính lại về sách lược sinh tồn và phương hướng phát triển nghề nghiệp.

  • ĐOÀN TUẤNThạch Lam qua đời cách đây đã hơn nửa thế kỉ. Ông để lại cho chúng ta một khối lượng tác phẩm không lớn nhưng chúng đã trở thành một mẫu số vĩnh hằng trong văn học Việt Nam. Tiếc rằng chúng ta đã không thể lưu giữ một bức chân dung nào của Thạch Lam. Thậm chí mộ ông được chôn cất nơi nào, cũng không ai biết.

  • NHẬT CHUNG       (Đọc bài thơ XÓM LỤT của anh Phạm Xuân Phụng)Anh Phụng là bác sĩ ở Bệnh viện Trung ương Huế. Tôi tìm hết trong tuyển tập HAI THẬP KỶ THƠ HUẾ, chỉ duy nhất bài thơ này viết về cảnh lụt lội hàng năm vẫn xảy ra ở mảnh đất nghèo khó. Trong những ngày đau buồn, khi nước vừa rút, trắng bợt trước mắt tôi những bài thơ tình èo uột nỉ non ẻo lả, và đứng dậy trước mắt tôi một bài thơ XÓM LỤT.

  • PHONG  LÊBến không chồng - Giải thưởng Hội Nhà văn năm 1991 đưa nhanh Dương Hướng lên một vị trí cao trong thành tựu văn học Đổi mới. Không thuộc đội ngũ “tiền trạm” xuất hiện từ đầu những năm 80 như Ma Văn Kháng, Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu và Nguyễn Mạnh Tuấn (sinh năm 1948) - người cùng thế hệ với anh (sinh 1949), đến tuổi 40 mới bắt đầu trình làng với tập truyện ngắn Gót son (1989), thế mà chỉ 2 năm sau, Dương Hướng bỗng trở thành một “tên tuổi” với Bến không chồng, góp mặt cùng Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường, Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh làm nên một bộ ba sáng giá trong văn học mở đầu thập niên 90, năm năm sau khởi động của công cuộc Đổi mới.

  • HÀ QUANG MINHLTS: Liệu có phải văn hóa chỉ đơn thuần là văn hóa hay nói cách khác là chỉ chứa đựng các yếu tố văn hóa không? Câu trả lời chắc chắn là không. Văn hóa mang cả trong nó tính chính trị và kinh tế. Trong khuôn khổ bài viết này, chỉ nhắc tới tính kinh tế trong văn hóa mà thôi nhưng hy vọng nó sẽ đóng góp nhiều cho công cuộc xây dựng một xã hội văn minh hơn, công bằng hơn.

  • ĐỖ LAI THÚYVề Kinh Bắc với những hội hè, chùa chiền, với đồng chiều cuống rạ, dây bìm bìm, bí lông tơ, giun đất, con gà trụi, châu chấu.. làm người đọc nhớ đến dòng thơ viết về nông thôn, nhất là thơ Nguyễn Bính. “ Trong các nhà thơ cùng thời viết về nông thôn như Bàng Bá Lân, Anh Thơ, Đoàn Văn Cừ... có lẽ chỉ có Nguyễn Bính là nhận thức sâu sắc được sự thay đổi của thôn quê trước “ cuộc xâm lăng” của đô thị.

  • TRẦN VĂN TOÀN - NGUYỄN XUÂN DIÊN1. Ảnh hưởng của Thơ Đường đối với Thơ Mới là một vấn đề từ lâu đã được đề cập tới. Ngay từ năm 1942, Hoài Thanh- Hoài Chân trong Thi nhân Việt Nam mặc dù giành nhiều trang để miêu tả ảnh hưởng của thơ Pháp (đặc biệt là trường phái Tượng trưng) nhưng các ông đã trân trọng và có một chút hứng thú đặc biệt về ảnh hưởng của Thơ Đường đối với Thơ Mới (điều này được bộc lộ qua công phu miêu tả, khảo cứu và cụ thể hơn từ chính số lượng trang viết). Khi phân chia các dòng mạch Thơ Mới, Hoài Thanh- Hoài Chân nói tới dòng mạch chịu ảnh hưởng của thơ Pháp, dòng mạch mang tính cách Việt, đồng thời cũng nói tới dòng mạch chịu ảnh hưởng từ Đường thi.

  • HOÀNG NGỌC HIẾN…Trong thời kỳ đổi mới xuất hiện nhiều tác phẩm cảm hứng phê phán rất mạnh. Có những quan điểm và giọng điệu phê phán rất khác nhau: xót xa và lo thương, căm uất và hằn học, tỉnh táo và điềm đạm... Cảm hứng phê phán mang tinh thần hài hước khoan hòa sẽ tạo một vị trí đặc biệt cho Nguyễn Việt Hà trong văn xuôi Việt Nam đương đại…

  • ALEXANDER GENISTrên thị trường Mỹ đã xuất hiện những cuốn sách điện tử đầu tiên. “Softbook” - một đĩa điện tử có màn hình bọc da. Sức chứa - 100 000 trang, trọng lượng - 15 kg, giá cả - 300 đôla cộng 10 đôla kết nối mỗi tháng. “Paketbook” giá 500 đôla, nhưng đi kèm với nó phải có máy tính cá nhân. “Dedicate Reader” - một sổ tay điện tử. Nó giống như một cuốn sách thực sự, có một màn hình kép chứa các bản vẽ, bản đồ, sơ đồ, bảng biểu. Giá là 1500 đôla. Như kinh nghiệm cho thấy, không ai thích đọc văn bản theo màn hình, vì thế tại viện nghiên cứu “Media-lab” người ta đang tìm cách chế tạo thứ “mực điện tử” - những cái bao hết sức nhỏ có thể tùy theo cường độ và hướng của dòng điện sắp xếp lại với nhau để tạo thành văn bản. Theo cách đó, gần như loại sách bằng giấy thông thường có thể được in lại - thay một nội dung này bằng một nội dung khác. Tờ “New York Times” viết: “Ngay giờ đây đã thấy rõ sách điện tử là điều tất yếu. Nếu như không phải là sự thay thế sách in, thì cũng là sự luân phiên nó”. (Theo báo chí)

  • TRẦN ANH PHƯƠNGCầm trên tay tập thơ "Người hái phù dung" của Hoàng Phủ Ngọc Tường tôi như đọc với chính mình giữa đêm khuya lặng lẽ bên ngọn đèn. Cảm nhận đầu tiên về thơ anh không phải thơ để đọc giữa chốn đông người hay ở trong hội trường lớn, thơ anh chỉ đến với người đọc khi chỉ còn lại một mình đối diện với chính mình, tìm lại mình trong những con chữ lan toả như từng đợt sóng, xâm chiếm choáng ngợp lòng người...

  • TRẦN THIỆN KHANH Inrasara nhập cuộc văn chương từ rất sớm. Ngòi bút của Inrasara chạm được vào những vấn đề cốt tử của nghệ thuật. Inrasara đã sống thực sự với đời sống văn chương đương thời.

  • HUYỀN SÂM - NGỌC ANH 1. Umberto Eco - nhà ký hiệu học nổi tiếng.Umberto Eco chiếm một vị trí rất đặc biệt trong nền lý luận đương đại của Châu Âu. Ông là một triết - mỹ gia hàn lâm, một nhà ký hiệu học uyên bác, một tiểu thuyết gia nổi tiếng và là giáo sư danh dự của trường Đại học Bologne ở Italia. Tư tưởng học thuật của ông đã tác động mạnh mẽ, tích cực đến đời sống trí tuệ của sinh viên và giới nghiên cứu trong suốt nửa thế kỷ qua. Ông có mặt trong danh sách của hai mươi nhà tư tưởng đương đại lớn nhất thế giới, và cũng là ứng cử viên thường trực của Viện Hàn lâm Thụy điển về việc bình chọn giải Nobel văn học.

  • ĐỖ NGUYỄN VIỆT TƯ         (Nhân đọc thơ Hoàng Vũ Thuật)Trong con người cũng như trong vũ trụ luôn luôn hiện diện một mâu thuẫn bất biến, nhờ cái khối mâu thuẫn này mà nó tồn tại, phát triển và trở nên thống nhất. Con người luôn đi tìm chính mình trong một cuộc phiêu lưu vô định, không bao giờ bằng lòng với những cái đã có, bản ngã lúc nào cũng thôi thúc sáng tạo để tìm ra cái mới. Nhà thơ luôn đồng hành với cuộc phiêu lưu của những con chữ để đi đến những miền đất lạ, những vùng cảm xúc.

  • NGUYỄN KHOA BỘI LANSau mấy tháng mưa tầm tã và lạnh thấu xương, qua đầu tháng chạp âm lịch, toàn khu Hạ Lào bắt đầu tạnh. Mặt trời lại hiện ra đem ánh sáng sưởi ấm những khu rừng bạt ngàn từ Trường Sơn lượn xuống. Ở các suối nước không còn chảy như thác đổ, ở Xê Công dòng nước cũng đã trở lại hiền hòa. Các con đường lớn, đường nhỏ bắt đầu khô ráo.

  • TRẦN ĐƯƠNGTôi được làm quen và có quan hệ cởi mở với nhà thơ Tố Hữu từ mùa thu năm 1973, sau khi ông dẫn đầu Đoàn đại biểu Đảng ta đi dự Đại hội đại biểu Đảng Cộng sản Đức (DKP) họp tại thành phố cảng Hăm-bugr). Từ  miền Tây, ông sang Béc-lin, Cộng hòa Dân chủ Đức, theo lời mời của Bộ chính trị Đảng xã hội chủ nghĩa thống nhất Đức (SED) với mục đích thăm, nghiên cứu và trao đổi về công tác tư tưởng giữa hai Đảng.

  • TRẦN THÁI HỌCĐến nay, vấn đề giá trị nghệ thuật không còn là vấn đề thời sự được nhiều người trong giới phê bình quan tâm bàn cãi. Sự lắng lại trong không khí phê bình về vấn đề này, vốn đã trải qua một thời kì tranh luận sôi nổi kéo dài hàng chục năm trên văn đàn gắn liền với những quan điểm triết học và mỹ học khác nhau, thậm chí đối lập nhau.

  • HÀ VĂN THỊNH Trên trái đất này, có lẽ chỉ có các nhà thơ mới quan niệm cuộc đời là một trò chơi. Ngay cả Thánh Kinh, khi bàn về lẽ khởi - tận của kiếp người cũng phải than: thân cát bụi trở về cát bụi. Lời nguyền đó là tiếng kêu bi thương từ sâu thẳm của hàng triệu năm đau đớn để sống và, để chết. Từ ngày đầu tiên sinh ra loài người, Adams  đã phải dắt díu Éva trốn chạy khỏi Thiên Đường trong nước mắt và uất hận; đau đớn và tuyệt vọng; cô đơn và sỉ nhục... Đó là những điều ngăn cản việc biến cuộc đời thành một trò chơi.