Nguyễn Khắc Phê với tản văn

16:47 02/06/2008
Tôi đến tìm ông vào một buổi sáng đầu đông, trong căn nhà ngập tràn bóng tre và bóng lá. Nếu không quen ắt hẳn tôi đã khá ngỡ ngàng bởi giữa phồn hoa đô hội lại có một khu vườn xanh tươi đến vậy!.

Vẫn khuôn mặt hiền từ và nụ cười nhân hậu, trước tách trà bốc khói, hai chú cháu lại nói chuyện “nhân tình thế thái”. Bất giác tôi chỉ buồn! Chỉ mới đây thôi, khi tiểu thuyết “Chỗ đứng người kỹ sư” vừa mới ra đời và những cuộc chiến khốc liệt trên dãy Trường Sơn, vậy mà đã hai mươi năm trôi qua. Hai mươi năm chưa phải là nhiều, song cũng vì nó mà đời người trở nên quá nửa. Hình như với Nguyễn Khắc Phê, khi tuổi đời đã đi chếch về bên kia trái núi, thay vì vui thú tuổi già thì ở ông, sức sáng tạo lại càng dẻo dai bền bỉ. Ngoài những bộ tiểu thuyết có quy mô, khai thác nhiều khía cạnh của cuộc sống, gần đây trên các báo và tạp chí, ông lại cho ra đều đặn các tác phẩm văn xuôi trữ tình – tản văn.
Cũng là một tiểu loại kí như bút kí, kí sự... và tất nhiên, những thể loại đó đã có cho mình được những định nghĩa tương đối ổn định và đầy đủ với đặc trưng riêng của nó. Tản văn từ trước đến nay rất ít người quan tâm thấu đáo, có lẽ vậy mà đến bây giờ thể tài này vẫn còn nhiều ý kiến chưa thống nhất. Có thể nói với gần 40 tản văn in chung trong tập Đời hoa, Nguyễn Khắc Phê thực sự đã đóng góp không nhỏ cho thể tài mới mẻ này.
Từ đoá hoa trắng trên cây bưởi ở góc vườn, đến hình ảnh những trẻ em lang thang trên hè phố, Nguyễn Khắc Phê không chỉ đưa người đọc bước vào thế giới bao la, thanh khiết mà dường như ông đã “cắm thẳng ngòi bút” vào những vấn đề của cuộc sống. Bọc trong thứ hương bưởi đơn sơ đến sững sờ kia, biết đâu là trái ngọt, vậy cớ sao trong những em bé không gia đình kia, biết đâu lại không có những nhân tài?
Thiên nhiên trong tản văn Nguyễn Khắc Phê được tái hiện không phải như những khách thể tự nó mà đó là thiên nhiên trong mối quan hệ với con người, con người sẽ trở nên thánh thiện hơn khi soi mình vào thiên nhiên hay nói cách khác, thiên nhiên khúc xạ tâm hồn và tình cảm con người.
Viết về xã hội, Nguyễn Khắc Phê chú trọng đến mảng đề tài suy thoái giá trị đạo đức thuần khiết Phương Đông. Mỗi thành viên trong xã hội đều trở thành nạn nhân của đồng tiền nếu lệ thuộc quá nhiều vào nó.
“Phải, ước chi các quan tham đang núp bóng các cửa quan cũng biết cảm thấy nhục nhã khi nhận những “món quà tình nghĩa” mà cấp dưới cống nạp lên trong dịp lễ tết thì bạc tỉ của công quỹ sẽ không bay hơi” [2,9 tỉ và 500, tr.5]
Phẩm chất đáng quý nhất trong tản văn Nguyễn Khắc Phê chính là trực giác nhạy bén, một tâm hồn giàu xúc cảm. Ông trân trọng những mầm non, yêu thương cả chú gà con vừa mới ra đời (Mẹ và con). Ông mở rộng, đón nhận những âm vang của cuộc sống (Bà già bên dốc Bến Ngự và những chuyến xe qua), quan tâm tới tất cả những gì diễn ra quanh mình, vươn tới sự đồng cảm, sẻ chia với bao cuộc đời khác. Ông vui với cái vui của người lao động dù là lao động chân tay hay lao động trí óc. (Niềm vui ngày cuối năm ở một phòng tranh, Những lá thư ngày mưa...). Thì ra đối với ông “mỗi điều trông thấy đều đau đớn lòng!”
“Biết làm sao được, nhờ trời thì bộ máy sẽ trong sạch hơn, và nhà báo các cậu cứ thẳng tay phanh phui mọi chuyện đi. Cứ nói huỵch toẹt cái nỗi nhục của thằng giám đốc như mình đi để các quan trên cũng biết nhục nhã khi nhận đút lót...” [2,9 tỉ và 500, tr. 64]
Tản văn Nguyễn Khắc Phê với kết cấu chặt chẽ, song lại nhẹ nhõm thoải mái. Đối với ông, mỗi giờ, mỗi khắc trong đời sống, ông đều nhắc nhớ trách nhiệm của mình. Vạn sự, vạn vật đều có thể đi vào văn pháp, hiểu được tận cùng đạo lý của sự vật sẽ nghĩ ra nhiều điều kỳ diệu... “Vì thế giữa vòng xoay ngày một nhanh trong cuộc sống hiện đại, ngày ngày xin nhớ dành ít phút tĩnh lặng cho tâm hồn...”
Thiết nghĩ, văn học không thoát ly được chính trị, song trói buộc văn học phụ thuộc chính trị một cách lộ liễu lại càng không nên – nhất là với tản văn.
Ông đã khá thành công khi viết về chính trị mà vẫn khiến người đọc hứng thú với tác phẩm, không hề cảm thấy bị thuyết giáo, tuyên truyền.
Dường như với Đời hoa thì người đọc không thể thờ ơ với tản văn được nữa. Có lẽ vì trước đó, tản văn được xem là một bày đặt nhỏ nhoi, không động tới xã hội, không phản ánh thời đại mà đâu biết rằng nghệ thuật không phân chia to nhỏ, thứ bậc. Mỗi tản văn đều có đỉnh cao của nó. Phải chăng mỗi cuộc đời này đều là canh bạc – một canh bạc lớn. Ở đó mọi con bài đều lật ngửa (?!) từ 2,9 tỉ và 500 đồng đến Những tấm phông kẻ sọc bên đường hay là Nỗi khổ của giám đốc ngày giáp tết, tịnh như ông đã tìm được cái tâm thái của xã hội, tìm được cái khí ấy mới đưa vào tác phẩm: “Khéo lắm bạn càng trở nên kênh kiệu, vàng vọt nhỏ bé” [Giả Bình Ao]
Đời hoa không làm choáng ngợp người đọc bằng những hình tượng vĩ đại hay một không gian kỳ vĩ, ở đó thấp thoáng tấm lưng còng của bà mẹ già đang quét lá (Bên quả chín cuối mùa), là hình ảnh của người đưa thư trong làn mưa giăng mắc... “Cuộc sống đâu chỉ toàn chuyện xấu và đừng vội nghi ngờ... Chợt nghĩ trong hàng ngũ những người làm công việc thầm lặng trên mọi nẻo đường đời, hẳn còn biết bao người như anh...” [Những lá thư ngày mưa, trang 14]
Có thể nói những hình tượng mà tác giả sử dụng trong tản văn của mình đều toát lên sức nặng tư tưởng. Chú gà con khi lìa mẹ có khác gì không khi người mẹ mang con mình bỏ vào thùng rác? Lẽ nào bên đường đời này giá trị đạo đức suy đồi đến vậy sao? Trường liên tưởng mà Nguyễn Khắc Phê dẫn dắt người đọc qua cách sáng tạo hình tượng không hề chống chếnh, bởi dù muốn hay không, sự thật vẫn luôn là sự thật dẫu thời gian có là kẻ đồng loã đáng ngờ!.
Nguyễn Khắc Phê không tự sáng tạo về mình, không đứng ra giao tiếp với độc giả theo ý muốn chủ quan của bản thân. Ở đó, những hình ảnh khách quan của cuộc sống đập vào cảm quan tác giả. Cùng với tư duy của mình, ông buộc độc giả phải tự khám phá, trả lời các câu hỏi để mà buồn vui cùng nhân thế.
Tản văn của Nguyễn Khắc Phê là nỗi buồn của một cuộc đời đã nhiều đêm dài trăn trở. Đi từ cái tôi trữ tình, chúng ta sẽ khám phá được nhiều vấn đề qua từng tản văn. Phong cách tản văn của Nguyễn Khắc Phê mới lạ và độc đáo, cái mới lạ cái độc đáo ở đây không phải là sự khoa trương ngôn ngữ mà là chất trữ tình đằm thắm, sâu sắc.
Nguyễn Khắc Phê đã xâu chuỗi được những chi tiết nhỏ bé, giản đơn trong cuộc sống thường nhật, thổi vào đó một linh hồn để nó cựa quậy, sống cùng độc giả. Như một đạo diễn tài hoa, tản văn Nguyễn Khắc Phê là sự tổng hợp nhiều kết cấu. Bà già bên dốc Bến Ngự và những chuyến xe qua, Đời hoa, Cây bưởi góc vườn, Thiếu quê hương... là kiểu kết cấu đơn tuyến. Những tản văn này thường có một nhân vật chính, đóng vai trò trung tâm xuyên suốt toàn bộ tác phẩm. Có lẽ không ít người thắc mắc về điều này bởi tản văn là logic cảm xúc mà không như hồi kí. Tản văn không lấy mô tả nhân vật làm mục đích, không nhờ vào thiên tài bịa chuyện hoặc "trò chơi từ vựng xanh xanh đỏ đỏ" [Giả Bình Ao, tản văn và truyện ngắn. Trang 13]. Tuy nhiên bên cạnh đó ta vẫn thấy thấp thoáng kiểu kết cấu song tuyến. Chủ đề của tác phẩm xuất hiện trong loại này dựa trên sự so sánh, đối chiếu giữa hai tuyến nhân vật song song và phát triển, hoặc bổ sung, hoặc đối lập (Bức tranh tương phản, 2,9 tỉ và 500).
Đó là hình ảnh của hai nữ sĩ Việt mặc đầm tha thướt và nữ họa sỹ người Pháp Mia Skene bó mình trong chiếc áo dài màu xanh. Tất nhiên không hẳn sự tương phản nào cũng đều mang nghĩa.
Ở đây, tác giả chỉ muốn người đọc cùng mình trả lời câu hỏi... "Có thể người Việt mình dễ thích nghi, khéo sử dụng những yếu tố ngoại lai chăng?" [Niềm vui ngày cuối ở một phòng tranh, trang 28]. Ngoài ra có nhiều tản văn có kết cấu đơn giản như: "Ngày xuân bàn về tốc độ...". Điểm sáng ở các tản văn này là tính nhân văn cao cả... "Vì thế giữa vòng quay ngày một nhanh trong cuộc sống hiện đại, ngày ngày xin nhớ dành ít phút tĩnh lặng cho tâm hồn". [Ngày xuân bàn về tốc độ, trang 11].
Thực tế sáng tạo của Nguyễn Khắc Phê qua Đời hoa còn phong phú hơn nhiều, song chúng ta chỉ trình bày một vài kết cấu đặc trưng để làm rõ cái hay, cái đẹp mà chưa phải là tất cả.
Qua một vài khám phá nho nhỏ của người viết, có lẽ người đọc đã ít nhiều định hình được tản văn Nguyễn Khắc Phê, song thật thiếu sót nếu không nhắc đến đặc trưng ngôn ngữ mà nhà văn đã sử dụng. Tản văn Nguyễn Khắc Phê dễ đi vào lòng người chính nhờ giọng văn kể chuyện đều đều, không cung thứ. Nhưng ẩn dưới những tâm sự dung dị kia là một tấm lòng đầy nhiệt huyết. Không hề vật lộn hay hằn học trong từng câu chữ như một số nhà văn khác, tản văn Nguyễn Khắc Phê còn sử dụng tình tiết gây cười và giọng văn hài hước để châm biếm những mặt trái của xã hội.
"Tôi viết những dòng này khi đêm đã khuya. Ngoài đường, như nhiều đêm trước, bác xích lô già sau một ngày lao động vất vả (chắc đã có tự thưởng cho mình một cốc rượu), thong thả đạp xe về với vợ con, miệng nghêu ngao hát những câu ca cổ. Tôi chợt nghĩ bác xích lô ấy so với một sếp tham nhũng ngồi trong ô tô kín bưng, trước những cặp mắt ghẻ lạnh của dân chúng, bụng căng đầy bia thịt và cũng đầy âm mưu móc ngoặc, hối lộ hòng che giấu tội lỗi thì chắc gì ai sướng hơn ai?" [Thử bàn chuyện sướng khổ, trang 97].
Dù ngôn ngữ tản văn Nguyễn Khắc Phê không mượt mà trau chuốt, nhưng nỗi đau đời còn đó, mỗi ngày lại càng nhoi nhói trong tim. Chính điều này cũng là một yếu tố nữa để lại dấu ấn khó phai khi đã đọc tản văn Nguyễn Khắc Phê. Từ cái vô hạn của thiên nhiên đến cái hữu hạn của đời người, người đọc như mơ hồ nhận ra một sự khẳng định lẽ sống, về cái đạo làm người trong muôn vàn hỗn tạp. Như không thể thiếu được thứ chất men say nồng của nghệ thuật thì ta khó hình dung được mặt trắng của cuộc đời. Vốn dĩ nghệ thuật là nhằm đem lại cho người đọc những giây phút thảnh thơi. Tản văn Nguyễn Khắc Phê là vậy - không ồn ào mà sâu lắng gợi cảm. Bước vào thế giới hình tượng trong tản văn Nguyễn Khắc Phê, chúng ta gặp một bức tranh toàn cảnh về cuộc sống. Ngôn ngữ Nguyễn Khắc Phê sử dụng đã lột tả được toàn bộ cái thần của nghệ thuật. Điều này đã làm cho các tản văn Nguyễn Khắc Phê giàu chất lãng mạn hơn, phong phú hơn về hình thức, về thể loại "đoản - ngắn".
Đời hoa như một tiếng thở dài tiếc nuối. Ẩn đằng sau lớp từ tản văn là cả một tấm lòng sâu nặng với cuộc đời, với những khoảnh khắc thần diệu nhất của Đời người - Đời hoa.
Trước đây, người đọc nhận diện được Nguyễn Khắc Phê với các tác phẩm viết về những công trình xây dựng, và cuộc chiến đấu chống Mỹ trên đường ra trận thì nay tản văn Đời hoa ra đời là sự cố gắng lớn của ông vào việc đóng góp cho thể tài mới mẻ này trong cuộc sống sau hòa bình.
Dưới con mắt quan sát tinh tế và vốn sống thâm viễn nên mỗi vấn đề nổi cộm của cuộc sống đều khiến ông trăn trở, băn khoăn. Sự nhạy cảm của một nhà báo đã nhiều năm lăn lộn trong nghề cho ông cái nhìn tỉnh táo - dù trần trụi. Kết thúc mỗi tản văn là một câu hỏi cứa vào lòng người đọc. Văn hóa là gì khi bên lề cuộc sống hãy còn những mảnh đời nghiệt ngã?. Liệu bằng tác phẩm nghệ thuật có gợi nhớ cho lòng người một thời trầu xanh vôi trắng?
Đời hoa, cũng như mọi tác phẩm văn học tích cực khác đã đem lại giá trị thực sự, bởi nó đã thức tỉnh mọi tình cảm, những hy vọng và ước mơ có thể có mà đang yên ngủ trong mỗi chúng ta, làm cho trái tim thêm tràn đầy tình yêu và những thổn thức về cuộc sống, biết được thế nào là hạnh phúc, giúp trí tưởng tượng bay nhanh tới đỉnh cao mơ ước.
Thời gian - câu trả lời không chỉ nhờ thời gian mà có cả ý thức của mỗi người. Thời gian sẽ giúp chúng ta tin rằng một ngày nào đó sẽ lại bắt gặp một tản văn khác của Nguyễn Khắc Phê. Ở đó, lại tràn đầy tình yêu thương và sự đấu tranh không mệt mỏi cho một xã hội công bằng, không vụ lợi.
                                Huế 12/2000

LƯƠNG MỸ HÀ
(nguồn: TCSH số 152 - 10 - 2001)
---------------------------------------
(1) Đời hoa - NXB Hội Nhà văn, Hà Nội 1999.
(2) Giả Bình Ao - Tản văn và truyện ngắn, NXB Văn Học, Hà Nội 1998, tr.13.

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • INRASARA           (Đọc Mang, tập thơ của Phan Trung Thành, Nxb, Trẻ TP.Hồ Chí Minh, 2004.)Dòng Seine và cầu Mirabeau, cuộc tình với người tình. Sông đi và cầu ở lại, cuộc tình tan nhưng người tình thì ở lại. Mãi mãi ở lại, cùng nỗi buồn ở lại.                Con sông nào đã xa nguồn                Thì con sông đó sẽ buồn với tôi                                                (Thơ Hoài Khanh)

  • THANH THIỆNBốn mùa yêu là tập thơ tình mang ý nghĩa "vật chứng" cho một biệt lập tâm hồn có tên là Lưu Ly. Người thơ này dường như luôn đắm mình trong giai điệu tình yêu muôn thuở giữa ba ngôi Trao - Nhận - Trả và đã chọn cách trả sòng phẳng nhất cho sự nhận của mình là trả vào thơ.

  • NGUYỄN VĂN HOA(Nhân đọc Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường)Tôi đã đọc nhiều tác phẩm của Hoàng Phủ Ngọc Tường và tôi cũng đã gặp ông trực tiếp đôi ba lần ở Huế và Hà Nội. Nhưng ấn tượng nhất là buổi hội ngộ của gia đình tôi với ông ở nhà nhà thơ Ngô Minh ở dốc Bến Ngự Huế.

  • HOÀNG VŨ THUẬT         (Thơ Chất trụ của Nguyễn Hữu Hồng Minh- Nxb Thuận Hoá 2002)Nguyễn Hữu Hồng Minh không làm cái phép phù thuỷ đưa độc giả tới một không gian rắc rối. Quan niệm về thơ của anh được trình bày rất nghiêm túc qua bài “Chất trụ”, lấy tên cho tập thơ. Tôi rất đồng tình quan niệm này, không mới, nhưng không dễ làm người ta chấp nhận.

  • HOÀNG NGỌC HIẾN(Đọc Dòng sông Mía của Đào Thắng)

  • TRẦN THIÊN ĐẠOCứ suy theo nhan đề, thì chúng ta có thể xếp các trang Viết về bè bạn - Tập chân dung văn nghệ sĩ (NXB Hải Phòng, 2003) của Bùi Ngọc Tấn cùng một loại với mấy tập sách đã ra mắt bạn đọc vài ba năm nay.

  • NGÔ MINHDi chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh do BCH TW Đảng công bố  trong ngày tang lễ Bác tại Quảng trường Ba Đình ngày 3-9-1969 (năm Kỷ Dậu) là một tác phẩm văn hóa lớn, thể hiện tình yêu Tổ Quốc, yêu nhân dân và nhân cách vĩ đại của Bác Hồ.

  • HÀ VĂN THỊNHTrong lịch sử của loài người, những vĩ nhân có tầm vóc và sự nghiệp phi thường chỉ có khoảng vài chục phần tỷ. Nhưng có lẽ rất chắc chắn rằng sự bí ẩn của những nhân cách tuyệt vời ấy gấp nhiều lần hơn tất cả những con người đang sống trên trái đất này. Tôi đã rất nhiều lần đọc Hồ Chí Minh Toàn tập, nhưng mỗi lần đều trăn trở bởi những suy tư không thể hiểu hết về Người.

  • HOÀNG NGỌC VĨNHHồ Chí Minh, Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, lãnh tụ xuất sắc của phong trào công nhân và cộng sản quốc tế, Chủ tịch Đảng Cộng sản Việt Nam, là người Việt Nam đầu tiên soạn thảo và ban bố các sắc lệnh tôn trọng tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân Việt Nam.

  • BÙI ĐỨC VINH(Nhân đọc tập thơ “Đá vàng” của Đinh Khương - NXB Hội Nhà văn 2004)

  • NGÔ XUÂN HỘITính tình phóng khoáng, Trần Chấn Uy chắc không mặn mà lắm với những cuộc chơi mà luật chơi được giới hạn bởi những quy định nghiêm ngặt! Ý nghĩ trên của tôi chợt thay đổi khi mở tập thơ Chân trời khát của anh, ngẫu nhiên bắt gặp câu lục bát: “Dòng sông buồn bã trôi xuôi/ Đàn trâu xưa đã về trời ăn mây”...

  • TRẦN THUỲ MAI( “Thơ Trà My” của Nguyễn Xuân Hoa - NXB Thuận Hoá, 2005)

  • HỒ THẾ HÀ(Đọc tập thơ Lửa và Đất của Trần Việt Kỉnh - Hội Văn học Nghệ thuật Khánh Hoà, 2003)

  • NGUYỄN THỊ ANH ĐÀO(Đọc tập ký ''Trên dấu chim di thê'' của Văn Cầm Hải- NXB Phương - 2003)

  • NGUYỄN QUANG HÀ(Đọc Huế trong thơ Nguyệt Đình)

  • NGUYỄN VĂN HOA(Nhà xuất bản Lao Động phát hành 2004)

  • PHẠM NGỌC HIỀNChưa lúc nào trong lịch sử Việt , các nhà văn hoá ta lại sốt sắng ra sức kêu gọi bảo tồn nền văn hoá dân tộc như lúc này. Xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế công nghiệp cộng với xa lộ thông tin đã mang theo những ngọn gió xa lạ thổi đến từng luỹ tre, mái rạ làm cho "Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều". Mà "Trách nhiệm của mỗi dân tộc là phải thể hiện rõ bản sắc của mình trước thế giới" (R. Tagor).

  • NGUYỄN THANH MỪNG                Miền duyên hải Nam Trung bộ gần gũi với Tây Nguyên lắm lắm, Bình Định gần gũi với Gia Lai lắm lắm, ít nhất ở phương diện địa lý và nhân văn. Ừ mà không gần gũi sao được khi có thể chiều nghe gió biển Quy Nhơn, đêm đã thấm trên tóc những giọt mưa Pleiku. Giữa tiếng gió mưa từ nguồn tới bể ấy nhất thiết bao nhiêu nỗi lòng ẩn chứa trong tiếng thơ diệu vợi có thể chia sẻ, bù đắp được cho nhau điều gì đó.

  • NGUYỄN QUANG HÀSau ba tập: Thơ viết cho em - 1998, Lối nhớ - 2000, Khoảng trời - 2002, năm 2004 này Lê Viết Xuân cho xuất bản tập thơ thứ tư: Đi tìm.

  • NGÔ MINHThật may mắn và hạnh phúc là Hoàng Phủ NgọcTường đã vượt qua được cơn tai biến hiểm nghèo của số phận, để được tiếp tục đến với đọc giả cả nước trong suốt mười một năm nay. Đối với tôi, khi bên chiếu rượu ngồi nghe anh Tường nói, hay đọc bút ký, nhàn đàm, thơ của Hoàng Phủ là những lần tôi được nghe các “cua” ngoại khóa sâu sắc về nhân văn và nghề văn.