Nguyễn Khắc Phê với tản văn

16:47 02/06/2008
Tôi đến tìm ông vào một buổi sáng đầu đông, trong căn nhà ngập tràn bóng tre và bóng lá. Nếu không quen ắt hẳn tôi đã khá ngỡ ngàng bởi giữa phồn hoa đô hội lại có một khu vườn xanh tươi đến vậy!.

Vẫn khuôn mặt hiền từ và nụ cười nhân hậu, trước tách trà bốc khói, hai chú cháu lại nói chuyện “nhân tình thế thái”. Bất giác tôi chỉ buồn! Chỉ mới đây thôi, khi tiểu thuyết “Chỗ đứng người kỹ sư” vừa mới ra đời và những cuộc chiến khốc liệt trên dãy Trường Sơn, vậy mà đã hai mươi năm trôi qua. Hai mươi năm chưa phải là nhiều, song cũng vì nó mà đời người trở nên quá nửa. Hình như với Nguyễn Khắc Phê, khi tuổi đời đã đi chếch về bên kia trái núi, thay vì vui thú tuổi già thì ở ông, sức sáng tạo lại càng dẻo dai bền bỉ. Ngoài những bộ tiểu thuyết có quy mô, khai thác nhiều khía cạnh của cuộc sống, gần đây trên các báo và tạp chí, ông lại cho ra đều đặn các tác phẩm văn xuôi trữ tình – tản văn.
Cũng là một tiểu loại kí như bút kí, kí sự... và tất nhiên, những thể loại đó đã có cho mình được những định nghĩa tương đối ổn định và đầy đủ với đặc trưng riêng của nó. Tản văn từ trước đến nay rất ít người quan tâm thấu đáo, có lẽ vậy mà đến bây giờ thể tài này vẫn còn nhiều ý kiến chưa thống nhất. Có thể nói với gần 40 tản văn in chung trong tập Đời hoa, Nguyễn Khắc Phê thực sự đã đóng góp không nhỏ cho thể tài mới mẻ này.
Từ đoá hoa trắng trên cây bưởi ở góc vườn, đến hình ảnh những trẻ em lang thang trên hè phố, Nguyễn Khắc Phê không chỉ đưa người đọc bước vào thế giới bao la, thanh khiết mà dường như ông đã “cắm thẳng ngòi bút” vào những vấn đề của cuộc sống. Bọc trong thứ hương bưởi đơn sơ đến sững sờ kia, biết đâu là trái ngọt, vậy cớ sao trong những em bé không gia đình kia, biết đâu lại không có những nhân tài?
Thiên nhiên trong tản văn Nguyễn Khắc Phê được tái hiện không phải như những khách thể tự nó mà đó là thiên nhiên trong mối quan hệ với con người, con người sẽ trở nên thánh thiện hơn khi soi mình vào thiên nhiên hay nói cách khác, thiên nhiên khúc xạ tâm hồn và tình cảm con người.
Viết về xã hội, Nguyễn Khắc Phê chú trọng đến mảng đề tài suy thoái giá trị đạo đức thuần khiết Phương Đông. Mỗi thành viên trong xã hội đều trở thành nạn nhân của đồng tiền nếu lệ thuộc quá nhiều vào nó.
“Phải, ước chi các quan tham đang núp bóng các cửa quan cũng biết cảm thấy nhục nhã khi nhận những “món quà tình nghĩa” mà cấp dưới cống nạp lên trong dịp lễ tết thì bạc tỉ của công quỹ sẽ không bay hơi” [2,9 tỉ và 500, tr.5]
Phẩm chất đáng quý nhất trong tản văn Nguyễn Khắc Phê chính là trực giác nhạy bén, một tâm hồn giàu xúc cảm. Ông trân trọng những mầm non, yêu thương cả chú gà con vừa mới ra đời (Mẹ và con). Ông mở rộng, đón nhận những âm vang của cuộc sống (Bà già bên dốc Bến Ngự và những chuyến xe qua), quan tâm tới tất cả những gì diễn ra quanh mình, vươn tới sự đồng cảm, sẻ chia với bao cuộc đời khác. Ông vui với cái vui của người lao động dù là lao động chân tay hay lao động trí óc. (Niềm vui ngày cuối năm ở một phòng tranh, Những lá thư ngày mưa...). Thì ra đối với ông “mỗi điều trông thấy đều đau đớn lòng!”
“Biết làm sao được, nhờ trời thì bộ máy sẽ trong sạch hơn, và nhà báo các cậu cứ thẳng tay phanh phui mọi chuyện đi. Cứ nói huỵch toẹt cái nỗi nhục của thằng giám đốc như mình đi để các quan trên cũng biết nhục nhã khi nhận đút lót...” [2,9 tỉ và 500, tr. 64]
Tản văn Nguyễn Khắc Phê với kết cấu chặt chẽ, song lại nhẹ nhõm thoải mái. Đối với ông, mỗi giờ, mỗi khắc trong đời sống, ông đều nhắc nhớ trách nhiệm của mình. Vạn sự, vạn vật đều có thể đi vào văn pháp, hiểu được tận cùng đạo lý của sự vật sẽ nghĩ ra nhiều điều kỳ diệu... “Vì thế giữa vòng xoay ngày một nhanh trong cuộc sống hiện đại, ngày ngày xin nhớ dành ít phút tĩnh lặng cho tâm hồn...”
Thiết nghĩ, văn học không thoát ly được chính trị, song trói buộc văn học phụ thuộc chính trị một cách lộ liễu lại càng không nên – nhất là với tản văn.
Ông đã khá thành công khi viết về chính trị mà vẫn khiến người đọc hứng thú với tác phẩm, không hề cảm thấy bị thuyết giáo, tuyên truyền.
Dường như với Đời hoa thì người đọc không thể thờ ơ với tản văn được nữa. Có lẽ vì trước đó, tản văn được xem là một bày đặt nhỏ nhoi, không động tới xã hội, không phản ánh thời đại mà đâu biết rằng nghệ thuật không phân chia to nhỏ, thứ bậc. Mỗi tản văn đều có đỉnh cao của nó. Phải chăng mỗi cuộc đời này đều là canh bạc – một canh bạc lớn. Ở đó mọi con bài đều lật ngửa (?!) từ 2,9 tỉ và 500 đồng đến Những tấm phông kẻ sọc bên đường hay là Nỗi khổ của giám đốc ngày giáp tết, tịnh như ông đã tìm được cái tâm thái của xã hội, tìm được cái khí ấy mới đưa vào tác phẩm: “Khéo lắm bạn càng trở nên kênh kiệu, vàng vọt nhỏ bé” [Giả Bình Ao]
Đời hoa không làm choáng ngợp người đọc bằng những hình tượng vĩ đại hay một không gian kỳ vĩ, ở đó thấp thoáng tấm lưng còng của bà mẹ già đang quét lá (Bên quả chín cuối mùa), là hình ảnh của người đưa thư trong làn mưa giăng mắc... “Cuộc sống đâu chỉ toàn chuyện xấu và đừng vội nghi ngờ... Chợt nghĩ trong hàng ngũ những người làm công việc thầm lặng trên mọi nẻo đường đời, hẳn còn biết bao người như anh...” [Những lá thư ngày mưa, trang 14]
Có thể nói những hình tượng mà tác giả sử dụng trong tản văn của mình đều toát lên sức nặng tư tưởng. Chú gà con khi lìa mẹ có khác gì không khi người mẹ mang con mình bỏ vào thùng rác? Lẽ nào bên đường đời này giá trị đạo đức suy đồi đến vậy sao? Trường liên tưởng mà Nguyễn Khắc Phê dẫn dắt người đọc qua cách sáng tạo hình tượng không hề chống chếnh, bởi dù muốn hay không, sự thật vẫn luôn là sự thật dẫu thời gian có là kẻ đồng loã đáng ngờ!.
Nguyễn Khắc Phê không tự sáng tạo về mình, không đứng ra giao tiếp với độc giả theo ý muốn chủ quan của bản thân. Ở đó, những hình ảnh khách quan của cuộc sống đập vào cảm quan tác giả. Cùng với tư duy của mình, ông buộc độc giả phải tự khám phá, trả lời các câu hỏi để mà buồn vui cùng nhân thế.
Tản văn của Nguyễn Khắc Phê là nỗi buồn của một cuộc đời đã nhiều đêm dài trăn trở. Đi từ cái tôi trữ tình, chúng ta sẽ khám phá được nhiều vấn đề qua từng tản văn. Phong cách tản văn của Nguyễn Khắc Phê mới lạ và độc đáo, cái mới lạ cái độc đáo ở đây không phải là sự khoa trương ngôn ngữ mà là chất trữ tình đằm thắm, sâu sắc.
Nguyễn Khắc Phê đã xâu chuỗi được những chi tiết nhỏ bé, giản đơn trong cuộc sống thường nhật, thổi vào đó một linh hồn để nó cựa quậy, sống cùng độc giả. Như một đạo diễn tài hoa, tản văn Nguyễn Khắc Phê là sự tổng hợp nhiều kết cấu. Bà già bên dốc Bến Ngự và những chuyến xe qua, Đời hoa, Cây bưởi góc vườn, Thiếu quê hương... là kiểu kết cấu đơn tuyến. Những tản văn này thường có một nhân vật chính, đóng vai trò trung tâm xuyên suốt toàn bộ tác phẩm. Có lẽ không ít người thắc mắc về điều này bởi tản văn là logic cảm xúc mà không như hồi kí. Tản văn không lấy mô tả nhân vật làm mục đích, không nhờ vào thiên tài bịa chuyện hoặc "trò chơi từ vựng xanh xanh đỏ đỏ" [Giả Bình Ao, tản văn và truyện ngắn. Trang 13]. Tuy nhiên bên cạnh đó ta vẫn thấy thấp thoáng kiểu kết cấu song tuyến. Chủ đề của tác phẩm xuất hiện trong loại này dựa trên sự so sánh, đối chiếu giữa hai tuyến nhân vật song song và phát triển, hoặc bổ sung, hoặc đối lập (Bức tranh tương phản, 2,9 tỉ và 500).
Đó là hình ảnh của hai nữ sĩ Việt mặc đầm tha thướt và nữ họa sỹ người Pháp Mia Skene bó mình trong chiếc áo dài màu xanh. Tất nhiên không hẳn sự tương phản nào cũng đều mang nghĩa.
Ở đây, tác giả chỉ muốn người đọc cùng mình trả lời câu hỏi... "Có thể người Việt mình dễ thích nghi, khéo sử dụng những yếu tố ngoại lai chăng?" [Niềm vui ngày cuối ở một phòng tranh, trang 28]. Ngoài ra có nhiều tản văn có kết cấu đơn giản như: "Ngày xuân bàn về tốc độ...". Điểm sáng ở các tản văn này là tính nhân văn cao cả... "Vì thế giữa vòng quay ngày một nhanh trong cuộc sống hiện đại, ngày ngày xin nhớ dành ít phút tĩnh lặng cho tâm hồn". [Ngày xuân bàn về tốc độ, trang 11].
Thực tế sáng tạo của Nguyễn Khắc Phê qua Đời hoa còn phong phú hơn nhiều, song chúng ta chỉ trình bày một vài kết cấu đặc trưng để làm rõ cái hay, cái đẹp mà chưa phải là tất cả.
Qua một vài khám phá nho nhỏ của người viết, có lẽ người đọc đã ít nhiều định hình được tản văn Nguyễn Khắc Phê, song thật thiếu sót nếu không nhắc đến đặc trưng ngôn ngữ mà nhà văn đã sử dụng. Tản văn Nguyễn Khắc Phê dễ đi vào lòng người chính nhờ giọng văn kể chuyện đều đều, không cung thứ. Nhưng ẩn dưới những tâm sự dung dị kia là một tấm lòng đầy nhiệt huyết. Không hề vật lộn hay hằn học trong từng câu chữ như một số nhà văn khác, tản văn Nguyễn Khắc Phê còn sử dụng tình tiết gây cười và giọng văn hài hước để châm biếm những mặt trái của xã hội.
"Tôi viết những dòng này khi đêm đã khuya. Ngoài đường, như nhiều đêm trước, bác xích lô già sau một ngày lao động vất vả (chắc đã có tự thưởng cho mình một cốc rượu), thong thả đạp xe về với vợ con, miệng nghêu ngao hát những câu ca cổ. Tôi chợt nghĩ bác xích lô ấy so với một sếp tham nhũng ngồi trong ô tô kín bưng, trước những cặp mắt ghẻ lạnh của dân chúng, bụng căng đầy bia thịt và cũng đầy âm mưu móc ngoặc, hối lộ hòng che giấu tội lỗi thì chắc gì ai sướng hơn ai?" [Thử bàn chuyện sướng khổ, trang 97].
Dù ngôn ngữ tản văn Nguyễn Khắc Phê không mượt mà trau chuốt, nhưng nỗi đau đời còn đó, mỗi ngày lại càng nhoi nhói trong tim. Chính điều này cũng là một yếu tố nữa để lại dấu ấn khó phai khi đã đọc tản văn Nguyễn Khắc Phê. Từ cái vô hạn của thiên nhiên đến cái hữu hạn của đời người, người đọc như mơ hồ nhận ra một sự khẳng định lẽ sống, về cái đạo làm người trong muôn vàn hỗn tạp. Như không thể thiếu được thứ chất men say nồng của nghệ thuật thì ta khó hình dung được mặt trắng của cuộc đời. Vốn dĩ nghệ thuật là nhằm đem lại cho người đọc những giây phút thảnh thơi. Tản văn Nguyễn Khắc Phê là vậy - không ồn ào mà sâu lắng gợi cảm. Bước vào thế giới hình tượng trong tản văn Nguyễn Khắc Phê, chúng ta gặp một bức tranh toàn cảnh về cuộc sống. Ngôn ngữ Nguyễn Khắc Phê sử dụng đã lột tả được toàn bộ cái thần của nghệ thuật. Điều này đã làm cho các tản văn Nguyễn Khắc Phê giàu chất lãng mạn hơn, phong phú hơn về hình thức, về thể loại "đoản - ngắn".
Đời hoa như một tiếng thở dài tiếc nuối. Ẩn đằng sau lớp từ tản văn là cả một tấm lòng sâu nặng với cuộc đời, với những khoảnh khắc thần diệu nhất của Đời người - Đời hoa.
Trước đây, người đọc nhận diện được Nguyễn Khắc Phê với các tác phẩm viết về những công trình xây dựng, và cuộc chiến đấu chống Mỹ trên đường ra trận thì nay tản văn Đời hoa ra đời là sự cố gắng lớn của ông vào việc đóng góp cho thể tài mới mẻ này trong cuộc sống sau hòa bình.
Dưới con mắt quan sát tinh tế và vốn sống thâm viễn nên mỗi vấn đề nổi cộm của cuộc sống đều khiến ông trăn trở, băn khoăn. Sự nhạy cảm của một nhà báo đã nhiều năm lăn lộn trong nghề cho ông cái nhìn tỉnh táo - dù trần trụi. Kết thúc mỗi tản văn là một câu hỏi cứa vào lòng người đọc. Văn hóa là gì khi bên lề cuộc sống hãy còn những mảnh đời nghiệt ngã?. Liệu bằng tác phẩm nghệ thuật có gợi nhớ cho lòng người một thời trầu xanh vôi trắng?
Đời hoa, cũng như mọi tác phẩm văn học tích cực khác đã đem lại giá trị thực sự, bởi nó đã thức tỉnh mọi tình cảm, những hy vọng và ước mơ có thể có mà đang yên ngủ trong mỗi chúng ta, làm cho trái tim thêm tràn đầy tình yêu và những thổn thức về cuộc sống, biết được thế nào là hạnh phúc, giúp trí tưởng tượng bay nhanh tới đỉnh cao mơ ước.
Thời gian - câu trả lời không chỉ nhờ thời gian mà có cả ý thức của mỗi người. Thời gian sẽ giúp chúng ta tin rằng một ngày nào đó sẽ lại bắt gặp một tản văn khác của Nguyễn Khắc Phê. Ở đó, lại tràn đầy tình yêu thương và sự đấu tranh không mệt mỏi cho một xã hội công bằng, không vụ lợi.
                                Huế 12/2000

LƯƠNG MỸ HÀ
(nguồn: TCSH số 152 - 10 - 2001)
---------------------------------------
(1) Đời hoa - NXB Hội Nhà văn, Hà Nội 1999.
(2) Giả Bình Ao - Tản văn và truyện ngắn, NXB Văn Học, Hà Nội 1998, tr.13.

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • PHẠM PHÚ PHONGTrước khi có Hoa nắng hoa mưa (NXB Thanh Niên, 2001), Hà Huy Hoàng đã có tập Một nắng hai sương (NXB Văn Nghệ TP Hồ Chí minh, 1998) và hai tập in chung là Một khúc sông Trà (NXB Văn nghệ TP Hồ Chí Minh) và Buồn qua bóng đuổi (NXB Văn hoá Dân tộc, 2000). Đã có thơ đăng và giới thiệu trên các báo Văn nghệ Trẻ, Văn nghệ TP Hồ Chí Minh, Lao động, Người lao động, các tập san, tạp chí Thời văn, Tiểu thuyết thứ bảy, Cẩm thành hoặc đăng trong các tuyển thơ như Hạ trong thi ca (1994), Lục bát tình (1997), Thời áo trắng (1997), Ơn thầy (1997), Lục bát xuân ca (1999)...

  • Hoàng Phủ Ngọc Tường. Sinh ngày 9 tháng 9 năm 1937. Quê ở Triệu Long, Triệu Hải, Quảng Trị. Năm 1960, tốt nghiệp khóa I, ban Việt Hán, Trường đại học Sư phạm Sài Gòn. Năm 1964, nhận bằng cử nhân triết Đại học Văn khoa Huế. Năm 1960 - 1966, dạy trường Quốc Học Huế. Từng tham gia phong trào học sinh, sinh viên và giáo chức chống Mỹ - ngụy đòi độc lập thống nhất Tổ quốc. Năm 1966 - 1975, nhà văn thoát li lên chiến khu, hoạt động ở chiến trường Trị Thiên. Sau khi nước nhà thống nhất, từng là Chủ tịch Hội Văn nghệ Quảng Trị, Tổng biên tập Tạp chí Cửa Việt.

  • ANH DŨNGLTS:  Kết hợp tin học với Hán Nôm là việc làm khó, càng khó hơn đối với Phan Anh Dũng - một người bị khuyết tật khiếm thính do tai nạn từ thuở còn bé thơ. Bằng nghị lực và trí tuệ, anh đã theo học, tốt nghiệp cử nhân vật lý lý thuyết trường Đại học Khoa học Huế và thành công trong việc nghiên cứu xây dựng hoàn chỉnh bộ Phần mềm Hán Nôm độc lập, được giải thưởng trong cuộc thi trí tuệ Việt Nam năm 2001.Sông Hương xin giới thiệu anh với tư cách là một công tác viên mới.

  • SƠN TÙNGLTS: Trong quá trình sưu tầm, tuyển chọn bài cho tập thơ Dạ thưa Xứ Huế - một công trình thơ Huế thế kỷ XX, chúng tôi nhận thấy rằng, hầu hết các nhà thơ lớn đương thời khắp cả nước đều tới Huế và đều có cảm tác thơ. Điều này, khiến chúng tôi liên tưởng đến Bác Hồ. Bác không những là Anh hùng giải phóng dân tộc, là danh nhân văn hoá thế giới mà còn là một nhà thơ lớn. Các nhà thơ lớn thường bộc lộ năng khiếu của mình rất sớm, thậm chí từ khi còn thơ ấu. Vậy, từ thời niên thiếu (Thời niên thiếu của Bác Hồ phần lớn là ở Huế) Bác Hồ có làm thơ không?Những thắc mắc của chúng tôi được nhà văn Sơn Tùng - Một chuyên gia về Bác Hồ - khẳng định là có và ông đã kể lại việc đó bằng “ngôn ngữ sự kiện” với những nhân chứng, vật chứng lịch sử đầy sức thuyết phục.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊAnh Hoài Nguyên, người bạn chiến đấu của nhà văn Thái Vũ (tức Bùi Quang Đoài) từ thời kháng chiến chống Pháp, vui vẻ gọi điện thoại cho tôi: “Thái Vũ vừa in xong TUYỂN TẬP đó!...” Nhà văn Thái Vũ từng được bạn đọc biết đến với những bộ tiểu thuyết lịch sử đồ sộ như “Cờ nghĩa Ba Đình” (2 tập - 1100 trang), bộ ba “Biến động - Giặc Chày Vôi”, “Thất thủ kinh đô Huế 1885”, “Những ngày Cần Vương” (1200 trang), “Thành Thái, người điên đầu thế kỷ” (350 trang), “Trần Hưng Đạo - Thế trận những dòng sông” (300 trang), “Tình sử Mỵ Châu” (300 trang)... Toàn những sách dày cộp, không biết ông làm “tuyển tập” bằng cách nào?

  • MINH QUANG                Trời tròn lưng bánh tét                Đất vuông lòng bánh chưng                Dân nghèo thương ngày Tết                Gói đất trời rưng rưng...

  • NGUYỄN THỊ THÁITôi không đi trong mưa gió để mưu sinh, để mà kể chuyện. Ngày ngày tôi ngồi bên chiếc máy may, may bao chiếc áo cho người. Tôi chưa hề may, mà cũng không biết cách may một chiếc Yêng như thế nào.

  • Nhà thơ Hải Bằng tên thật là Vĩnh Tôn, sinh ngày 3 tháng 2 năm 1930, quê ở thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ông mất ngày 7 tháng 7 năm 1998.

  • NGUYỄN VĂN HOACuốn sách: "Nhớ Phùng Quán" của Nhà xuất bản Trẻ, do Ngô Minh sưu tầm, tuyển chọn và biên soạn với nhiều tác giả phát hành vào quý IV năm 2003. Cuốn sách có 526 trang khổ 13x19cm. Bìa cứng, in 1000 cuốn. Rất nhiều ảnh đẹp của Nguyễn Đình Toán - nhà nhiếp ảnh chân dung nổi tiếng của Việt nam. Đơn vị liên doanh là Công ty Văn hoá Phương Nam.

  • ĐÀ LINHĐể có trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ, trước đó quân đội Nhân dân Việt Nam đã có những trận đánh để đời mở ra những khả năng to lớn về thế và lực cho chúng ta. Trong đó Trận chiến trên đường (thuộc địa) số 4 - biên giới Cao Bắc Lạng 1950 là một trận chiến như vậy.

  • HOÀNG VĂN HÂNLướt qua 30 bài thơ của Ngô Đức Tiến trong “Giọng Nghệ”, hãy dừng lại ở những bài đề tài tình bạn. Với đặc điểm nhất quán, bạn của anh luôn gắn liền với những hoài niệm, với những địa chỉ cụ thể, về một khoảng thời gian xác định. Người bạn ấy hiện lên khi anh “nghĩ về trường” “Thăm trường cũ”, hoặc là lúc nhớ quá phải “Gửi bạn Trường Dùng” “ Nhớ bạn Thanh Hoá”. Bạn của anh gắn với tên sông, tên núi: sông Bùng, sông Rộ, Lạt, Truông Dong, Đồng Tháp.

  • FAN ANHTrên thế gian này tồn tại biết bao nhiêu báu vật, hoặc những huyền thoại về báu vật, thì cũng gần như hiện hữu bấy nhiêu nỗi đau và bi kịch của con người vốn dành cả cuộc đời để kiếm tìm, bảo vệ, chiếm đoạt hay đơn giản hơn, đặt niềm tin vào những báu vật ấy. Nhẫn thạch (Syngué sabour - Pierre de patience) của Atiq Rahimi trước tiên là một báu vật trong đời sống văn học đương đại thế giới, với giải thưởng Goncourt năm 2008, sau đó là một câu chuyện về một huyền thoại báu vật của những người theo thánh Allad.

  • KIM QUYÊNSinh năm 1953 tại Thừa Thiên (Huế), tốt nghiệp Đại học Sư phạm Huế năm 1976, sau đó về dạy học ở Khánh Hoà (Nha Trang) hơn 10 năm. Từ năm 1988 đến nay, nhà thơ xứ Huế này lại lưu lạc ở thành phố Hồ Chí Minh, tiếp tục làm thơ và viết báo. Chị là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, hiện nay là biên tập viên Tạp chí Văn hoá Nghệ thuật của Sở Thông tin Văn hoá thành phố Hồ Chí Minh.

  • VÕ QUANG YẾN Tôi yêu tiếng nước tôi                Từ khi mới ra đời làm người                                                Phạm Duy

  • PHẠM NGUYÊN TƯỜNGKhao khát, đinh ninh một vẻ đẹp trường tồn giữa "cuộc sống có nhiều hư ảo", Vú Đá, phải chăng đó chính là điều mà kẻ lãng du trắng tóc Nhất Lâm muốn gửi gắm qua tập thơ mới nhất của mình? Bài thơ nhỏ, nằm nép ở bìa sau, tưởng chỉ đùa chơi nhưng thực sự mang một thông điệp sâu xa: bất kỳ một khoảnh khắc tuyệt cảm nào của đời sống cũng có thể tan biến nếu mỗi người trong chúng ta không kịp nắm bắt và gìn giữ, để rồi "mai sau mang tiếng dại khờ", không biết sống. Cũng chính từ nhận thức đó, Nhất Lâm luôn là một người đi nhiều, viết nhiều và cảm nghiệm liên tục qua từng vùng đất, từng trang viết. Câu chữ của ông, vì thế, bao giờ cũng là những chuyển động nhiệt thành nhất của đời sống và của chính bản thân ông.

  • MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHTôi nghe rằng,Rạch ròi, đa biện, phân minh, khúc chiết... là ngôn ngữ khôn ngoan của lý trí nhị nguyên.Chan hoà, đa tình, niềm nỗi... là ngôn ngữ ướt át của trái tim mẫn cảm.Cô liêu, thuỷ mặc, bàng bạc mù sương, lấp ló trăng sao... là ngôn ngữ của non xanh tiểu ẩn.Quán trọ, chân cầu, khách trạm, phong trần lịch trải... là ngôn ngữ của lãng tử giang hồ.Điềm đạm, nhân văn, trung chính... là ngôn ngữ của đạo gia, hiền sĩ.

  • MAI VĂN HOANTập I hồi ký “Âm vang thời chưa xa” của nhà thơ Xuân Hoàng ra mắt bạn đọc vào năm 1995. Đã bao năm trôi qua “Âm vang thời chưa xa” vẫn còn âm vang trong tâm hồn tôi. Với tôi, anh Xuân Hoàng là người bạn vong niên. Tôi là một trong những người được anh trao đổi, trò chuyện, đọc cho nghe những chương anh tâm đắc khi anh đang viết tập hồi ký để đời này.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ giới thiệuNhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà phê bình Hoài Thanh (1909-2009)Chúng ta từng biết cố đô “Huế Đẹp và Thơ” một thời là nơi hội tụ các văn nhân, trong đó có những tên tuổi kiệt xuất của làng “Thơ Mới” Việt Nam như Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên…; nhưng nhà phê bình Hoài Thanh lại đến với Huế trong một hoàn cảnh đặc biệt và có thể nói là rất tình cờ.

  • LÊ TRỌNG SÂM giới thiệuBà sinh ra và lớn lên ở Painpol và Saint-Malo, một đô thị cổ vùng Bretagne, miền đông bắc nước Pháp. Học trung cấp và tốt nghiệp cử nhân văn chương ở thành phố Nice, vùng xanh da trời miền nam nước Pháp. Là hội viên Hội nhà văn Pháp từ năm 1982, nay bà đã trở thành một trong số ít nhà văn Châu Âu đã tiếp thu và thâm nhập sâu sắc vào rất nhiều khía cạnh của văn hoá Việt Nam.

  • MAI VĂN HOAN giới thiệu Vĩnh Nguyên tên thật là Nguyễn Quang Vinh. Anh sinh năm 1942 (tuổi Nhâm Ngọ) ở Vĩnh Tuy, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Bố anh từng tu nghiệp ở Huế, ông vừa làm thầy trụ trì ở chùa vừa bốc thuốc chữa bệnh cho người nghèo. Thuở thiếu thời anh đã ảnh hưởng cái tính ngay thẳng và trung thực của ông cụ. Anh lại cầm tinh con ngựa nên suốt đời rong ruổi và “thẳng như ruột ngựa”.