Nguyễn Du không viết câu Kiều trùng vận

15:29 31/10/2008
NGUYỄN THẾNhững năm gần đây, vấn đề nghiên cứu về Truyện Kiều đã được các học giả Việt trong và ngoài nước quan tâm. Nhiều cuộc trao đổi, thảo luận về Truyện Kiều được đưa ra trong các cuộc hội thảo chuyên ngành về ngôn ngữ, văn học và trên diễn đàn báo chí, Internet...

Việc phát hiện và công bố các bản Truyện Kiều bằng chữ Nôm ở nhiều vùng miền trên cả nước đã giúp thêm cho giới nghiên cứu tiếp cận được những văn bản “gốc” của Truyện Kiều bằng chữ Nôm (in khắc hoặc chép tay) có niên đại sớm (1866, 1870, 1871, 1872...) Đã có khá nhiều công trình nghiên cứu, so sánh, đối chiếu các dị bản Truyện Kiều một cách khoa học. Đặc biệt là các công trình của GS Nguyễn Tài Cẩn và PGS Đào Thái Tôn... về các bản Kiều Duy Minh Thị 1872, Liễu Văn Đường 1871, Kiều Oánh Mậu 1902. Song cho đến nay, câu chuyện về chữ nghĩa Truyện Kiều vẫn đang tiếp tục được đưa ra để trao đổi thêm về cách đọc, cách hiểu. Tất cả đều với mục đích tìm về gần hơn với nguyên tác Truyện Kiều của Nguyễn Du.
Bất cứ ai, khi đọc truyện Kiều chắc cũng đều nhớ đến đoạn Nguyễn Du tả cảnh chị em Kiều đi hội đạp thanh:
Thanh minh trong tiết tháng ba
Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh
Đây là nơi mở đầu cho mối duyên gặp gỡ giữa Kiều và Kim Trọng, nơi Kiều nhỏ nước mắt trước ngôi mộ nàng ca nhi xấu số Đạm Tiên. Để rồi đêm hôm đó, Kiều được Đạm Tiên báo mộng cho biết, Kiều cũng có tên trong sổ đoạn trường. Một giấc mộng báo trước số phận mười năm lưu lạc, những giọt nước mắt mở đầu cho một cuộc truân chuyên của kẻ má hồng.
Thúy Vân  thấy Kiều khóc trước mộ Đạm Tiên, nàng đã buông lời:
(Câu 105)                   
Vân rằng: “Chị cũng nực cười,
Khéo dư nước mắt khóc người đời xưa  
Rằng hồng nhan tự thuở xưa.
Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu”
Khi khảo sát các bản Kiều chữ Nôm, đến câu 106 - 107, GS Nguyễn Tài Cẩn cho rằng: “Không lẽ có chuyện trùng vận !”(1) vì hai câu liền nhau đều có chữ cuối là xưa. Trong cuốn “Tư liệu truyện Kiều Bản Duy Minh Thị 1872”, GS Nguyễn Tài Cẩn đọc lại hai câu này là:
Cũng dư nước mắt khóc người đời xưa 
Rằng hồng nhan tự thuở .
(Bản Duy Minh Thị 1872 chép là: Cũng dư nước mắt... còn ở các bản khác đều chép là: Khéo dư nước mắt...)
Câu 106 ở bản
Kiều Oánh Mậu 1902: Khéo dư nước mắt khóc người cổ sơ. Các bản  khác: đời xưa.
Câu 107 bản
Liễu Văn Đường 1871: Rằng hồng nhan tự nghìn xưa. Các bản khác: thuở xưa

Chữ cuối của hai câu 106 +107 ở phần lớn các bản Kiều chữ Nôm đều viết:
chữ  này âm Hán đọc là Sơ; âm Nôm đọc là Sơ hay Xưa đều đúng(2). Song trong trường hợp này nếu hai chữ cuối ở hai câu liền nhau đều đọc âm xưa thì trùng vận.
Khi nghiên cứu về tiếng Huế, tôi phát hiện ra rằng, người dân ở một số vùng nông thôn ở đây vẫn gọi một cách kính trọng đối với người đã chết là “đời sơ” như: anh đời sơ; chú đời sơ; bác đời sơ... Nếu đọc theo tiếng Huế, hai câu này phải đọc là:
Cũng dư nước mắt khóc người đời sơ
Rằng hồng nhan tự thuở xưa
Như vậy là rất hợp lý và câu Kiều của Nguyễn Du không bị trùng vận. Người đời sơ có nghĩa là người đã khuất.

Huế, nơi đặt kinh đô của Nhà Nguyễn ngày xưa; đồng thời cũng là nơi tập hợp của cư dân khắp nơi trong cả nước, mà đông nhất là dân Châu Hoan, Châu Ái tức là vùng Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh... ngày nay. Tiếng Huế tập hợp tiếng nói của nhiều vùng miền, trong đó có cả yếu tố ngôn ngữ Việt - Mường. Vì vậy tiếng Huế khá phong phú và đa dạng về mặt ngữ âm và ngôn từ. Hiện nay, người dân ở đây vẫn còn dùng phổ biến một số từ cổ mà đối với thế kỷ trước nó là những từ phổ thông quen dùng. Để hiểu thêm một số từ ngữ cổ trong Truyện Kiều chúng ta cần phải khảo sát thêm về ngữ âm lịch sử các vùng miền; đặc biệt là phương ngữ vùng khu IV cũ (bao gồm Thanh-Nghệ-Tĩnh; Bình-Trị-Thiên) để có thể  tìm về một bản truyện Kiều  gần với nguyên tác.

Quê của Nguyễn Du ở Nghệ An, thời kỳ làm quan với triều Nguyễn, ông ta đã có nhiều năm sống ở Huế. Ở đây không bàn đến thời điểm sáng tác Truyện Kiều vào lúc nào và ở đâu. Song chắc chắn rằng, vết tích của phương ngữ Nghệ An và Huế xuất hiện khá nhiều trong truyện Kiều. Ngay ở kinh đô Huế, truyện Kiều cũng đã được nhiều người sao chép, sau đó lưu hành khắp cả nước, rồi tiếp tục được sao đi chép lại nên ngày nay ta thấy xuất hiện khá nhiều bản Kiều. Nhưng bản Kiều gốc của Nguyễn Du thì cho đến nay vẫn chưa tìm thấy. Sự đóng góp của chúng tôi tuy rất nhỏ, chỉ một đôi chữ, nhưng hy vọng rằng, nếu chúng ta quan tâm đến việc tìm hiểu tiếng Huế trong truyện Kiều của Nguyễn Du thì chắc sẽ phát hiện thêm được nhiều điều lý thú về chữ nghĩa của truyện Kiều, một kiệt tác văn học của Đại thi hào Nguyễn Du. 
                      N.T

(nguồn: TCSH số 236 - 10 - 2008)

 

 

 

                            

-------------
(1) Nguyễn Tài Cẩn. Tư liệu Truyện Kiều Bản Duy Minh Thị 1872. Nxb Đại Học Quốc Gia, HN, 2002, Tr 404.
(2) Bản Kiều của Lâm Nọa Phu 1870 viết hai chữ này theo hình chữ
; Bản Kiều Oánh Mậu 1902 chép hình chữ (câu 106), còn câu 107 chép là : Chữ này đọc âm là xưa (trên chữ sơ: , dưới chữ cổ: )

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NUNO JÚDICENhà thơ, nhà phê bình văn học Nuno Júdice (sinh 1949) là người gốc xứ Bồ Đào Nha. Ông có mối quan tâm đặc biệt đối với văn học hiên đại của Bồ Đào Nha và văn học thời Trung cổ của Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha. Là tác giả của khoảng 15 tuyển tập thơ và đã từng được trao tặng nhiều giải thưởng trong nước, ông cũng đồng thời là dịch giả và giảng viên đại học. Từ năm 1996, ông sáng lập và điều hành tạp chí thơ “Tabacaria” ở Lisbonne.

  • NGUYỄN VĂN DÂNNgười ta cho rằng tiểu thuyết có mầm mống từ thời cổ đại, với cuốn tiểu thuyết Satyricon của nhà văn La Mã Petronius Arbiter (thế kỷ I sau CN), và cuốn tiểu thuyết Biến dạng hay Con lừa vàng cũng của một nhà văn La Mã tên là Apuleius (thế kỷ II sau CN).

  • HẢI TRUNGSông chảy vào lòng nên Huế rất sâuBản hùng ca của dãy Trường Sơn đã phổ những nốt dịu dàng vào lòng Huế, Hương Giang trở thành một báu vật muôn đời mà tạo hóa đã kịp ban phát cho con người vùng đất này. Chính dòng Hương đã cưu mang vóc dáng và hình hài xứ Huế. Con sông này là lý do để tồn tại một đô thị từ Thuận Hóa đến Phú Xuân và sau này là Kinh đô Huế, hình thành phát triển đã qua 700 năm lịch sử.

  • HÀ VĂN THỊNH Nhân dịp “Kỷ niệm 50 năm Đại học Huế (ĐHH) Xây dựng và Phát triển”, ĐHH xuất bản Tạp chí Khoa học, số đặc biệt – 36, 4.2007.

  • NGÔ ĐỨC TIẾNNăm 1959, nhân dịp vào thăm Bảo tàng Cách mạng Việt Nam, đến gian trưng bày hiện vật và hình ảnh đồng chí Phan Đăng Lưu, đồng chí Lê Duẩn phát biểu: “Đồng chí Phan Đăng Lưu là một trí thức cách mạng tiêu biểu”.

  • NGUYỄN KHẮC MAITháng 3 –1907, một số sĩ phu có tư tưởng tiến bộ của Việt Nam đã khởi xướng thành lập Đông Kinh Nghĩa Thục tại Hà Nội với mục đích “khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh” hô hào xây dựng đời sống mới mà giải pháp then chốt là mở trường học, nâng dân trí, học hỏi những bài học hoàn toàn mới mẻ về dân chủ, dân quyền, dân sinh, dân trí, cả về sản xuất kinh doanh, xây dựng lối sống văn minh của cá nhân và cộng đồng.

  • HỒ THẾ HÀ Thật lâu, mới được đọc tập nghiên cứu - phê bình văn học hay và thú vị. Hay và thú vị vì nó làm thỏa mãn nhận thức của người đọc về những vấn đề văn chương, học thuật. Đó là tập Văn chương - Những cuộc truy tìm(1) của Đỗ Ngọc Yên.

  • ĐOÀN TRỌNG HUY

    Huy Cận có một quãng đời quan trọng ở Huế. Đó là mười năm từ 1929 đến 1939. Thời gian này, cậu thiếu niên 10 tuổi hoàn thành cấp tiểu học, học lên ban thành chung, sau đó hết bậc tú tài vào 19 tuổi. Rồi chàng thanh niên ấy tiếp tục về học bậc đại học ở Hà Nội.

  • NGUYỄN KHẮC THẠCHTrước hết phải thừa nhận rằng, từ ngày có quỹ hỗ trợ sáng tạo tác phẩm, công trình Văn học Nghệ thuật cho các Hội địa phương thì các hoạt động nghề nghiệp ở đây có phần có sinh khí hơn. Nhiều tác phẩm, công trình cá nhân cũng như tập thể được công bố một phần nhờ sự kích hoạt từ quỹ này.

  • THẠCH QUỲTrước hết, tôi xin liệt kê đơn thuần về tuổi tác các nhà văn.

  • TÙNG ĐIỂNLTS:  “Phấn đấu để có nhiều tác phẩm tốt hơn nữa” là chủ đề cuộc tập huấn và hội thảo của các Hội Văn học Nghệ thuật khu vực miền Trung và Tây Nguyên tại thành phố Nha Trang đầu tháng 7 vừa qua. Tuy nhiên, ngoài nội dung đó, các đại biểu còn thảo luận, đánh giá hiệu quả sử dụng quỹ hỗ trợ sáng tạo tác phẩm, công trình văn học nghệ thuật trong mấy năm gần đây.Nhiều ý kiến thẳng thắn, tâm huyết, nhiều tham luận sâu sắc chân thành đã được trình bày tại Hội nghị.Sông Hương xin trích đăng một phần nội dung trên trong giới hạn của chuyên mục này.

  • PHẠM PHÚ PHONGMột đặc điểm tương đối phổ biến của các tác giả sáng tác ở miền Nam trước đây là hầu hết các nhà văn đều là những nhà văn hoá, tác phẩm của họ không chỉ thể hiện sự am hiểu đến tường tận các lĩnh vực văn hoá, mà trong một đời văn lực lưỡng của mình, họ không chỉ sáng tác văn chương mà còn sưu tầm, dịch thuật, khảo cứu nhiều lĩnh vực văn hoá như lịch sử, địa lý, địa chí, ngôn ngữ, dân tộc học, văn học và văn hoá dân gian, như các tác giả từng toả bóng một thời là Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của, Nguyễn Chánh Sắt, Đông Hồ, Vương Hồng Sển, Nguyễn Văn Xuân, Sơn Nam... trong đó có Bình Nguyên Lộc.

  • PHAN KHÔILời dẫn Bài mà tôi giới thiệu dưới đây thuộc một giai đoạn làm báo của Phan Khôi còn ít người biết, − giai đoạn ông làm báo trên đất Thần Kinh, tức thành phố Huế ngày nay, những năm 1935-1937; khi ấy Huế đang là kinh đô của triều Nguyễn, của nước Đại Nam, nhưng chỉ là một trung tâm vào loại nhỏ xét về báo chí truyền thông trong toàn cõi Đông Dương thời ấy.

  • PHONG LÊÔng là người cùng thế hệ, hoặc là cùng hoạt động với Nam Cao, Nguyên Hồng, Tô Hoài, Nguyễn Huy Tưởng, Như Phong... Cùng với họ, ông có truyện trên Tiểu thuyết thứ Bảy và Trung Bắc chủ nhật trong những năm 1941-1945. Cùng hoạt động trong Hội Văn hóa cứu quốc đầu Cách mạng tháng Tám, và tham gia xây dựng văn nghệ kháng chiến, làm tờ Tạp chí Văn nghệ số 1 - tiền thân của tất cả các cơ quan ngôn luận của Hội Văn nghệ và Hội Nhà văn Việt Nam.

  • TRẦN VĂN SÁNGCó thể nói, học tập phong cách ngôn ngữ Chủ tịch Hồ Chí Minh, trước hết, là học tập cách viết và cách lập luận chặt chẽ qua từng câu chữ, mỗi trang văn chính luận. Những văn bản: “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến”, “Tuyên truyền”, “Bản án chế độ thực dân Pháp”, “Tuyên ngôn Độc lập” luôn là những áng văn mẫu mực về phong cách ngôn ngữ ngắn gọn, chắc chắn, dễ hiểu, chính xác và giàu cảm xúc.

  • TRẦN THỊ MAI NHÂNNgười ta kể rằng, ở Ấn Độ, trong cái nhộn nhịp của cuộc sống, con người thường nghe văng vẳng tiếng gọi: “Hãy chở ta sang bờ bên kia”. Đó là tiếng gọi của con người khi “cảm thấy rằng mình còn chưa đến đích” (Tagore).

  • HOÀNG THỊ BÍCH HỒNGKhái niệm “Lạ hoá” (estrangemet) xuất hiện trong những năm 20 của thế kỷ XX gắn với trường phái hình thức Nga. Theo Shklovski thì nhận thức của con người luôn có xu hướng tự động hoá để giảm bớt năng lượng tư duy, “người ta thường dùng những từ quen thuộc đến sờn mòn”(1).

  • VÕ THỊ THU HƯỜNGTrời đất bao la mênh mông, ẩn chứa thật nhiều những bí mật mà con người chúng ta không ngừng khám phá mỗi ngày và cũng đã đạt được rất nhiều thành tựu mới mẻ và kỳ lạ.

  • TZVETAN TODOROV Lời dẫnNền văn chương đang lâm nguy (La littérature en péril)(1), đó là tựa đề cho cuốn sách mới nhất, vừa được xuất bản ở Pháp của nhà lý luận văn học nổi tiếng: Tzvetan Todorov - đại biểu xuất sắc của chủ nghĩa cấu trúc, tác giả của nhiều công trình khoa học tầm cỡ.

  • LẠI NGUYÊN ÂN 1. Phạm trù chủ nghĩa cá nhân (individualisme) của tư tưởng phương Tây được Phan Khôi (1887-1959) đề cập từ cuối những năm 1920 đầu những năm 1930, khi mà một trong những đề tài thu hút ngòi bút viết báo của ông chính là vấn đề thời sự của đời sống văn hoá tư tưởng đương thời: trạng thái và số phận của những tư tưởng cổ truyền phương Đông trước một xu thế đang diễn ra trên chính phương Đông, được gọi là xu hướng “Âu hoá”.