Nguyễn Du, 1813

07:52 18/07/2011
Năm 1813, Nguyễn Du trở lại Thăng Long, chuẩn bị cho chuyến đi sứ sang Trung Quốc, dưới triều Nguyễn. Bấy giờ Nguyễn Du đã ngoài 40 tuổi, đã chứng kiến sự thay đổi của ba triều đại phong kiến, sự đổ vỡ, tàn lụi của chính gia đình ông, một gia đình quan lại lớn, gắn bó với các triều đại ấy.

Ảnh: internet

[if gte mso 9]> Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 <![endif][if gte mso 9]> <![endif][if gte mso 10]> <![endif]

Sự hưng phế, mất còn của các triều đại, cảnh bể dâu của đời người trong xã hội phong kiến, là nỗi buồn lo, day dứt khôn nguôi trong thơ Nguyễn Du lúc này.
Chúng tôi thử sắp xếp lại các ý tứ, câu chữ trong thơ ông, cố gắng hình dung ra khuôn mặt tinh thần của nhà thơ - một chứng nhân của thời đại mình.




Ý NHI


Nguyễn Du, 1813


1.
Không giã biệt
Không gặp gỡ
ta bước trên lối cũ như khách lạ

Khí lạnh ban đêm dồn hết vào một người
Chiếc khăn thâm nhỏ hẹp sổ tung
tóc bạc bơ phờ trước gió
suốt đời chỉ một mối u hoài

Tháng năm trôi qua như giấc mộng
mà nào như giấc mộng chàng Lư
ta lênh đênh gốc bể, chân trời
ta là người bệnh không có thuốc
kẻ đói không có cơm
ta dùng sách làm gối tựa khi đau yếu
uống rượu cho bớt vẻ xanh xao
Một mình khêu ngọn đèn trong đêm đã bắt đầu dài

2.
Không ai trói buộc
Không ai gông cùm
Không ai đánh đập
Không ai chửi mắng
sao ta sống như trong lồng cũi

Sao ta không thể rượu say như người ta vẫn uống
không đi săn như người ta vẫn đi săn
không thể yên lòng ngồi nghe các ca nữ đàn hát trước đèn nến
không thể vui ngắm cúc đầu thu
không thể hái bông sen bên hồ mà lòng không vướng bận

Ta sinh ra nào có tướng công hầu
Mà lận đận mãi chốn bụi trần không sao gỡ được
ta chờ đợi điều chi
mong mỏi điều chi

3.
Nào còn đâu những lâu đài đồ sộ nghìn xưa
những thành quách tưởng muôn đời bền vững
ta bước giữa những con đường mới
những đền đài mới
lòng kinh sợ
như đứa trẻ đi trong mưa lạc lối

Những bạn bè cũ đã cáo quan
nhiều người ăn măng trúc măng mai ngồi câu bên sông vắng
làm thơ thưởng hoa
làm thơ vịnh nguyệt
Coi cuộc đời như phù vân

Các bạn gái ngày xưa nay tay dắt tay bồng
vẻ đẹp chóng tàn phai
không ai còn mặc áo màu thanh thiên
không ai còn cài hoa trên tóc
không ai còn hát bài hát cũ
Đường dài, trời đã về chiều, tìm đâu ra bạn mới
ta chờ đợi điều chi
mong mỏi điều chi

4.
Chợt nhớ người hát khúc Ly tao bên sông
bờ cỏ đầy hoa lan, hoa chi
nhưng nghìn thuở ai thương người tỉnh một mình
bao nhiêu năm sau ta còn gặp bọn Thượng quan Ngận thượng
nước mỗi dòng thăm thẳm sóng Mịch La
bao nhiêu năm sau tưởng còn thấy ngọn cờ
buổi Hàn Tín cầm binh lên phương Bắc
nhưng mấy ai lúc hiển vinh còn nhớ ơn kẻ cứu giúp mình
nỗi oan cừu gớm ghê dễ chi tan được

Mấy ai hát như nàng Ngu Cơ lúc kề bên cái chết
ai gảy đàn lúc lâm hình như Thúc Dạ
ai biết vui như Vinh Khải Kỳ đi mót lúa
ai uống rượu tựa Lưu Linh

Hàng nghìn năm còn lại mấy tuổi tên
trên mặt đất đầy việc dữ
ta chờ đợi điều chi
mong mỏi điều chi

5.
Cả kinh thành đêm nay chỉ một mình ta
Không bạn hữu, không trăng, không rượu đắng
ta còn chờ đợi chi
còn mong mỏi điều chi
mắt mở trừng trừng luôn tưởng bao chuyện trước

Ta như người gảy đàn sau tháng ngày tan hợp (*)
mặt đã võ vàng
áo quần rách nát
không lìa khúc đàn xưa.

                       
12-1983

(16/12-85)



---------
(*) Chỉ cô Câm, người ca nữ trong bài thơ “Long thành cầm giả ca”




Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • HẢI BẰNG

  • PHẠM TẤN HẦUKhúc hát nhỏ gởi thành phố của tôi

  • Võ Quê sinh năm 1948 tại An Truyền, Hương Phú, Bình Trị Thiên. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Võ Quê làm thơ từ năm 16 tuổi và có thơ in trên các sách báo văn nghệ tiến bộ ở miền Nam từ năm 1968. Nguyên là trưởng ban báo chí Tổng hội sinh viên Huế, anh đã bị ngụy quyền bắt giam ở Côn Đảo năm 72 và năm 73 được thả, thoát ly lên chiến khu. Anh là một nhà thơ được quần chúng yêu mến trong phong trào đấu tranh của sinh viên học sinh miền Nam.

  • TRẦN HOÀNG PHỐ         Để tưởng nhớ nhà thơ Ngô Kha và Trần Quang Long đã hy sinh

  • VĨNH NGUYÊNDòng sông cảm nhận

  • PHẠM NGUYÊN TƯỜNGCà phê với bạn thơ ở Sài gòn

  • FAN TUẤN ANHĐoản khúc số 56

  • LÂM THỊ MỸ DẠThiên thạch

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG       Kính tặng Hà Nội - Trái tim

  • THÁI NGỌC SANHà Nội của tôi

  • HỒNG NHUNhặt được ở sổ tay 1

  • PHẠM TẤN HẦU            Để nhớ TNS“tiếng thét trong bóng đêm mới mẻ, chỉ cần hát và chỉ cần khóc”                                                J.BRODSKY

  • NGUYỄN KHẮC THẠCHNgón trăng1

  • LTS: Tại nhà thờ họ Lê của làng Mỹ Lợi, huyện Phú Lộc, vào tháng 10 năm 1950 đã diễn ra Hội nghị Họp ban thành lập Hội Văn nghệ Thừa Thiên, đánh dấu sự ra đời sớm nhất của một hội văn nghệ địa phương trong cả nước. Kỷ niệm 60 năm sự kiện đầy thiêng liêng và ý nghĩa ấy, những ngày tháng Tám, Trại sáng tác Về Nguồn đã được Hội LH VHNT tổ chức ngay tại mảnh đất Mỹ Lợi.

  • LTS: Đào Tấn (1845-1907) nhà thơ, nghệ sĩ tuồng xuất sắc. Ông đã ở Huế nhiều năm, viết nhiều vở tuồng có giá trị trong văn học sử Việt Nam. Cảnh sắc thiên nhiên và con người Huế cũng là nguồn cảm hứng của thơ, từ của ông. Chúng tôi xin giới thiệu một số thơ, từ của Đào Tấn viết về miền đất sông Hương qua bản dịch của nhà nghiên cứu tuồng Vũ Ngọc Liễn.

  • LÊ VĨNH THÁIKhi chúng ta không là của nhau

  • LTS: Ngô Minh sinh ngày 10-9-1949 tại An Thủy, Quảng Bình. Bắt đầu in thơ từ năm 1975. Được giải thưởng thơ hay báo Nhân dân 1978…Ngô Minh đã từng là bộ đội chiến đấu ở chiến trường miền Nam nhiều năm, vì thế thơ anh viết về nhiều đề tài cuộc sống, nhưng vẫn mang đầy hơi thở của một người lính: sâu đằm, bỏng cháy…