LÊ HUỲNH LÂM
Những buổi chiều tôi thường nhìn lá trước sân nhà cuốn bay theo gió. Chợt nghĩ, cái lẽ tự nhiên đó đã đẩy đưa một con người vào khúc quành của cuộc sống. Bởi tâm hồn ông quá nhạy cảm trước mọi sự, và ông có một lối diễn đạt chân thật, bình dị, gần gũi mà rất chua chát.
Nhà thơ Trần Vàng Sao
Cuộc đời nó vốn như vậy, trong con người ông, nhân vật thi sĩ như đang ngắm nhìn tất cả diễn biến trôi ngang qua phận đời. Cái thể cách phân thân để ngắm nhìn một cách khách quan như vậy không có được ở nhiều người. Cũng như người canh giữ ngôi đền, ông ta quan sát mọi người đi qua cánh cổng bằng ánh mắt người gác đền. Ở đây, từ ngôi đền ấy, con người thi ca mang tên Trần Vàng Sao đã lưu giữ được rất nhiều dữ kiện, nỗi dày vò, những mảng màu phức hợp của máu và đất, những hình ảnh thương đau,... và cả một thói đời cay nghiệt!
Để sau cùng là con người cụ thể Nguyễn Đính ngồi chép lại những gì mà nhân vật thi sĩ đã chứng nghiệm, cái cách chép lại đó như một cuốn nhật ký buồn, tôi gọi đó là người viết nhật ký bằng thơ.
Nhật ký như mọi người đều hiểu là ghi lại sự thật những sự kiện mình đã thâu nhận được trong từng ngày. Bằng thể cách đó, sự thật đã làm nên một thi sĩ khi hình ảnh một người miệt mài, cặm cụi ghi chép những biến cố bên ngoài, hoặc tận sâu trong tâm khảm của nhân vật thi sĩ dù ở bất kỳ hoàn cảnh nào.
Ngay trong tình yêu, có thể là cơn ái tình đầu đời đã khiến trái tim Trần Vàng Sao rung động, cách diễn đạt tình yêu trong thơ ông cũng rất chất phác:
tôi hôn em
như em hôn tôi
lúc đó nhìn chiếc lá rụng ngoài sân
tôi nói những cuộc tình duyên cay đắng
muộn màng
...
thuở ấy mưa gió xa xôi
tôi làm người tình ngu ngơ đã đành
nên yêu em dại dột
em đi rồi tôi còn đứng mỏi chân
(Thuở ấy mưa gió xa xôi)
Có thể, ông đã không viết, nhưng nhân vật thi sĩ đã ghi nhớ, đã âm thầm viết trong tâm tưởng của ông từng biến cố, từng sự kiện, để những buổi chiều nhìn lá rơi trước sân nhà, ông chỉ việc chép lại, chép mỏi tay thì ngó mây bay trên trời, bóng tối đổ xuống như bình mực đổ tràn trên trang vở, giữa màu đen chỉ còn nhịp thở của người ngồi nghe tiếng chó sủa.
Mây và gió, như một biểu đạt cho sự chuyển động, không bị giới hạn trong bất kỳ không gian nào, cũng như tâm thức của một thi sĩ luôn hướng đến tự do. Vì chỉ có tâm thái tự do mới có thể cho ra đời những tác phẩm vượt qua rào cản của sự sợ hãi. Xét cho cùng, chúng ta đang sợ điều gì? Sợ hãi như một bản năng được huân tập của lý tính. Hầu hết, con người đều sợ những gì mình chưa thấy, chưa trải nghiệm. Như sợ chết, sợ ma, sợ mất danh dự, sợ không vừa lòng người khác,... và... con người cũng sợ những gì mình đã thấy, đã nghe và trải nghiệm.
Trần Vàng Sao vốn dĩ là một thi sĩ đứng bên ngoài mọi chủ nghĩa, mọi hệ lụy, đứng một cách trang trọng, uy nghi giữa thế giới thi ca. Không một ràng buộc nào, không một thế lực nào có thể lợi dụng, mua chuộc được tâm thế của thi sĩ thực thụ như vậy. Nhân vật thi sĩ nhảy múa, ca hát trên những con đường mà ông đã băng qua, không để lại bất kỳ một dấu vết. Nhưng con người Nguyễn Đính luôn tự truy hỏi về sự xuất hiện của chính nó trước cuộc đời. Vì thế, Nguyễn Đính đã không thể nhập vai vào Trần Vàng Sao, ông bỏ thành phố lên núi rừng để làm cách mạng, nhưng định mệnh xô đẩy ông rơi vào hoàn cảnh nghiệt ngã, để nhân vật Trần Vàng Sao có cơ may chiêm ngắm những gì mà Nguyễn Đính đã nếm trải. Cũng chính cái chất thi sĩ Trần Vàng Sao lớn quá nên đã dẫn dắt cái thân xác Nguyễn Đính đi theo quỷ đạo mà Trần Vàng Sao đã linh cảm. Nếu tình cảnh của Nguyễn Đính rơi vào một người khác, thì khó lòng để vượt qua được, dù Nguyễn Đính nhiều lúc đã trở thành kẻ mất trí, tên điên...
Nhưng Trần Vàng Sao trong con người Nguyễn Đính luôn tỉnh táo, luôn ghi nhận lại những gì đã và đang xảy ra.
Đặc biệt với cái chết như một nỗi ám ảnh thường trực với cả Nguyễn Đính và Trần Vàng Sao. Vì ông đã chứng kiến cái chết của đồng đội, đồng chí,... và cả trẻ em, đàn bà, những người dân vô tội. Những cái chết khiến ông day dứt.
Trong kinh Phật có câu: “Một niệm khởi thập ác sinh”. Vậy đó, chỉ một niệm rất vi tế vừa móng khởi trong sâu thẳm mỗi chúng ta, có khi chúng ta chưa kiểm soát, chưa định hình, nhưng nó đã âm thầm biến chuyển để hình thành lời nói, câu chữ, hành động.
Có những lúc thất vọng, buồn chán Nguyễn Đính đã hỏi: “Bây giờ mi chết thật rồi sao” như một câu ta thán được lập lại rất nhiều lần trong bài “Đồng chí”, đó chính là những lúc Trần Vàng Sao đã ly khai con người Nguyễn Đính.
Những ngày đó lạt muối ở Chà Tang hay Con En
mười mấy đứa ăn một lon gạo nấu với môn vót và đọt mây
mi ở miền Tây về với nửa cùi sắn khô
nửa đêm thức nhau dậy mỗi đứa bốc một nắm
nằm nhai nghe bom nổ nói chuyện đời
có đứa con gái bán hành ngò sáng nào gặp mi đi học cũng cười rất vui
bây giờ mi chết thật rồi sao
(Đồng chí)
Thơ Trần Vàng Sao như một đại tự sự, tâm thức của cả một thời đại đã được ông mô tả xác thực qua những bài thơ. Đó là sự sợ hãi, mất phương hướng, nỗi cơ cực nghèo khó của hầu hết mọi người trong thời tao loạn. Ông dùng kỹ thuật liệt kê để tố cáo sự tàn khốc của chiến tranh, những từ nguyên trong thơ ông được sử dụng độc lập như những điểm giàu (rick point) trong hội họa để hướng người đọc xoáy vào trọng tâm bài thơ. Cái tôi trong thơ Trần Vàng Sao gần gũi với người dân nghèo mộc mạc, những mảnh tiểu tự sự rời rạc đã được kết nối rất tinh tế để vẽ nên một bức tranh của thời cuộc lúc bấy giờ. Nhưng điểm chính yếu của thơ Trần Vàng Sao là một bản bi ca với những âm thanh não nùng, âm hưởng của ca dao đã xâm chiếm xuyên suốt trong toàn bộ thơ ông, cùng với những hình ảnh đau buồn, bi đát của một đất nước đang bị chia cách bởi ý thức hệ. Điều mà mỗi trí thức dấn thân luôn trăn trở trước vận mệnh dân tộc.
![]() |
Chân dung Trần Vàng Sao - Ký họa của Đặng Mậu Triết |
Thật ra, toàn bộ thơ Trần Vàng Sao là một tập nhật ký của những trái buồn. Cho dù ông có in thêm hàng chục tập nữa cũng là tập hợp những trang nhật ký bị bỏ quên. Nhưng cái cách viết nhật ký của ông như một cuộc hội thoại giữa hai nhân vật, có những câu, những đoạn trang trọng, khí khái bất chợt xuất hiện những hình ảnh bình dị, chân chất.
tôi yêu đất nước này cay đắng
những đêm dài thắp đuốc đi đêm
quen thân rồi không ai còn nhớ tên
dĩ vãng đè trên lưng thấm nặng
áo mồ hôi những buổi chợ về
đời cúi thấp
giành từng lon gạo mốc
từng cọng rau, hột muối
Và tâm trạng của ông cũng chính là tâm trạng của cả một dân tộc từng bị tước đoạt tự do, độc lập:
Tôi đi hết một ngày
gặp toàn người lạ
chưa ai biết chưa ai quen
không biết tuổi không biết tên
cùng sống chung trên trái đất
cùng nỗi đau chia cắt Bắc Nam
cùng có chung tên gọi Việt Nam
mang vết thương chảy máu ngoài tim
cùng nhức nhối với người chết oan ức
đấm ngực giận hờn tức tối
cùng anh em cất cao tiếng nói
bản tuyên ngôn mười bốn triệu người đòi độc lập tự do
bữa ăn nào cũng phải được no
mùa lạnh phải có áo ấm
được ca hát, nói cười, yêu đương không ai cấm
được thờ cúng những người mình tôn kính
(Bài thơ của một người yêu đất nước mình)
Tôi có thể tưởng tượng ra chân dung của một Trần Vàng Sao - Nguyễn Đính; đó là gương mặt của hai tầng văn hóa đan xen vào nhau, như trên cái bàn bày biện toàn rượu tây bên cạnh chén nước mắm ruốc. Hay trong tủ sách của ông la liệt sách tây lại có thêm tục ngữ ca dao Việt Nam,... hay ông thường kể chuyện cinema xen lẫn những vở hát bội, hát tuồng.
Vậy là, sau khi các nhà xuất bản in tập thơ “Bài thơ của một người yêu nước mình” vào năm 1993, hai tập thơ Trần Vàng Sao vào năm 2009 và 2010, bây giờ tập thơ thứ tư của ông xuất hiện một cách công khai giữa thanh thiên bạch nhật, có nhan đề “Gọi tìm xác đồng đội ”, tranh bìa của danh họa Picasso, do Nhà xuất bản Hội Nhà văn ấn hành tháng 7/2012, Lê Trung Dân chịu trách nhiệm bản thảo, tập thơ chỉ độc nhất một bài và in cả chữ viết của Nguyễn Đính. Nội dung chủ yếu của tập thơ này là danh sách của những người chết chưa tìm được xác, và những ám ảnh của chiến tranh như một di chứng trong tâm thức của tác giả.
Chiến tranh đã qua
Thằng hề rửa sạch mặt
Đi bán kẹo kéo nuôi con
…
Chiến tranh đã qua
Người lính bỏ ngũ
Lên núi đào sắt gỉ
Lựu đạn nổ
Cụt một cánh tay
Chiến tranh đã qua
Tôi ngồi một chỗ
Đêm giật mình nghe bom nổ trong đầu
Thấy thằng bạn chết xác phơi ba ngày giữa nắng
(Gọi tìm xác đồng đội)
Không hiểu sao khi tôi lật đến trang 24 thấy dòng cuối cùng ghi Vỹ Dạ, ngày 24 tháng 8 năm 1996, rồi đọc đến trang 28, trang cuối thì dòng cuối cùng ghi Vỹ Dạ, ngày 26 tháng 4 năm 1996. Đúng là Nguyễn Đính khi ghi lại nhật ký Trần Vàng Sao thì đang ở trạng thái “phê”: “thấy một đồng thành ba bốn đồng”.
Khi Nguyễn Đính cầm tập thơ trên tay, gương mặt ông thoáng nét cười lặng lẽ, nhiều vết nhăn trên gương mặt càng nhăn sâu hơn và sau mươi phút trò chuyện. Thi sĩ Trần Vàng Sao lại tâm sự: “Mình nói thật, mình muốn sống yên, mệt quá rồi, ai làm chi thì làm, thơ mình làm nhiều, nhiều lắm, mình tiếc nhiều bài thơ đã bị thất lạc khi ở miền Bắc, có bài dài lắm, như bài Bản thánh ca của một người dựa cột đình liếm lá bánh. Mình muốn có cách chi tìm lại số thơ đó”. Hỡi ôi, đã quá tuổi thất thập cổ lai hy rồi, vậy mà con người thi sĩ Trần Vàng Sao vẫn không hòa hợp với con người chép nhật ký cho thơ Trần Vàng Sao có tên Nguyễn Đính. Một đời thơ là vậy!
L.H.L
(SĐB9-12)
BÙI VIỆT THẮNGVịt trời lông tía bay về (*) là sự lựa chọn có thể nói rất khắt khe của chính nhà văn Hồng Nhu, rút từ cả chục tập và chưng cất ba mươi truyện ngắn tiêu biểu của gần trọn một đời văn. Con số 33 là ít những không là ít vì nhà văn ý thức được sâu sắc quy luật nghiệt ngã của nghệ thuật ngôn từ “quý hồ tinh bất quý hồ đa”. 33 truyện được chọn lọc trong tập sách này có thể gọi là “tinh tuyển truyện ngắn Hồng Nhu”.
PHẠM PHÚ PHONGPhạm Đương có thơ đăng báo từ khi còn là sinh viên khoá bốn, khoa Ngữ văn đại học Tổng hợp Huế. Đó là thời kỳ anh sinh hoạt trong câu lạc bộ văn học của thành đoàn Huế, dưới sự đỡ đầu của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm (lúc này vừa rời ghế Bí thư thành đoàn, sang làm Tổng biên tập Tạp chí Sông Hương vừa mới thành lập.)
HÀ KHÁNH LINHNgười lính chiến trở về bỏ lại một phần thân thể của mình trên trận mạc, tựa vào gốc nhãn hoang bên vỉa hè lầm lụi kiếm sống, thẳng ngay, chân thật, khiêm nhường.
PHẠM XUÂN NGUYÊNTrong Ngày Thơ Việt vừa qua, một tuyển tập thơ “nặng hàng trăm năm” đã được đặt trang trọng tại Văn Miếu Quốc Tử Giám Hà Nội. Rất nhiều những bài thơ xứng đáng với danh xưng hay nhất thế kỷ XX đã “biện lý do” vắng mặt, và ngược lại. Đấy là một trong nhiều sự thật được đa phần dư luận kiểm chứng. Cũng là một góc nhìn khá rõ nét, Sông Hương xin giới thiệu ba bài viết của Phạm Xuân Nguyên, Nguyễn Hữu Qúy và Phước Giang về tuyển tập thơ “nặng ký” trên.
NGUYỄN HỮU QUÝCuộc thi bình chọn 100 bài thơ hay nhất Việt Nam thế kỷ XX do Trung tâm Văn hoá doanh nhân và Nhà xuất bản Giáo Dục phối hợp tổ chức đã kết thúc. Một ấn phẩm mang tên “100 bài thơ hay nhất Việt thế kỷ XX” đã được ra đời. Nhiều người tìm đọc, trong đó có các nhà thơ và không ít người đã tỏ ra thất vọng, nghi ngờ.
PHƯỚC GIANGTrung tâm Văn hóa doanh nhân và Nhà xuất bản Giáo dục vừa tuyển chọn và giới thiệu 100 bài thơ hay nhất thế kỷ XX.Việc này thực hiện trong hai năm, theo ông Lê Lựu, Giám đốc Trung tâm Văn hóa doanh nhân thì kết quả thật mỹ mãn: hơn 10.000 phiếu bầu, kết quả cuối cùng “không ai bị bỏ sót” và “trong 100 bài đã được chọn chỉ chênh với các danh sách khác khoảng 5-7 bài”.
NHỤY NGUYÊN
Truyện ngắn của Nguyên Quân trong Vòng tay tượng trắng (Nxb. Văn Học, 2006) khá mộc mạc ở cả đề tài và lối viết, nhưng cũng nhờ cái mộc mạc đó đã hút được nguồn nguồn mạch sống.
QUÁCH GIAOMùa Xuân Đinh Hợi đến với tôi thật lặng lẽ. Cây Thiết Mộc Lan nơi đầu ngõ năm nay ra hoa muộn song lại tàn trước Tết. Hoa trong sân nhà chỉ lưa thưa vài nụ Bát Tiên. Hai chậu mai không buồn đâm hoa trổ nụ. Đành thưởng xuân bằng thơ văn của bằng hữu.
NHỤY NGUYÊN
(Đọc Ngày rất dài - Thơ Đoàn Mạnh Phương, Nxb Hội Nhà văn, 2007)
TRẦN THÙY MAI(Đọc Đức Phật, nàng Savitri và tôi, tiểu thuyết của Hồ Anh Thái, Nhà xuất bản Đà Nẵng, 2007)
NGUYỄN KHẮC PHÊ(Nhân đọc “Nhà văn Việt Nam hiện đại” - Hội Nhà văn Việt Nam xuất bản, 5-2007)Trong dịp kỷ niệm 50 năm thành lập Hội Nhà văn Việt Nam (1957-2007), Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam (HNVVN) đã xuất bản công trình quan trọng “Nhà văn Việt Nam hiện đại” (NVVNHĐ), dày 1200 trang khổ lớn, tập hợp chân dung trên một ngàn nhà văn các thế hệ, từ các cụ Ngô Tất Tố, Phan Khôi… cho đến lớp nhà văn vừa được kết nạp cuối năm 2006 như Nguyễn Danh Lam, Nguyễn Vĩnh Tiến, Phan Huyền Thư…
BÍCH THU(Đọc Tô Hoài - Đời văn và tác phẩm của Hà Minh Đức, Nxb Văn học, 2007)Tô Hoài - Đời văn và tác phẩm của Hà Minh Đức là cuốn sách tập hợp những ghi chép và nghiên cứu về nhà văn Tô Hoài, một tác gia lớn của văn học Việt Nam hiện đại. Đây là cuốn sách đầu tiên kết hợp hai phương diện ghi chép và nghiên cứu, góp một cách tiếp cận đa chiều và cập nhật về con người và sự nghiệp của nhà văn.
NGUYỄN QUANG HÀ(Đọc Từ đá vắt ra của Trần Sĩ Tuấn)Chiếc áo choàng mà tác giả nói ở đây là chiếc áo blouse trắng của người thầy thuốc. Tác giả là bác sĩ. Chắc anh đang làm thơ về nghề nghiệp của mình.Trong đời có bốn bậc thầy được nhân dân ngưỡng mộ: Thầy thuốc chữa bệnh, thầy giáo dạy học, thầy cúng, thầy phù thủy cùng dân tìm cõi tâm linh.
HẢI TRUNGKhoa tuyên bố với tôi: mình viết truyện ngắn đây, không phải để thành nhà gì cả, cốt để cho mấy đứa con làm gương mà học tập. Tôi ngờ ngợ, cứ nghĩ là anh nói vui vì chơi với đám bạn văn chương mà bốc đồng buột miệng. Ai ngờ anh viết thật, viết say sưa, viết để quên và để nhớ.
VĂN CẦM HẢIVề phía biển, là thường nhân di du với cõi minh mang nhưng Nguyễn Thanh Tú, biển là nơi anh được vời vợi nỗi cô đơn của một loài thân phận có tên là thơ!
MAI VĂN HOANHồn đầy hoa cúc dại là tập thơ thứ bảy của Lâm Thị Mỹ Dạ. Thơ Dạ đã có rất nhiều người bàn luận, bình phẩm. Mỗi người có một cách cảm nhận riêng. Bài viết của Ngô Minh mới đây giúp cho độc giả biết thêm những uẩn khúc, những góc khuất trong cuộc đời của Dạ.
DUNG THÙYĐây là tập thơ đầu tay của tác giả Nguyễn Thị Anh Đào do NXB Đà Nẵng ấn hành với cảm xúc tròn đầy và một tâm hồn nồng ấm. Là một cây bút trẻ đang độ sung sức, chị có nhiều thơ và truyện ngắn đăng trên các báo, tạp chí và Ngày không trở lại gói ghém những niềm riêng.
LÝ HẠNH(Đọc Thơ tặng của nhà thơ Ngô Minh)Ngô Minh là nhà thơ, nhà văn, nhà báo, vì thế mà cố nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng đã từng nói về ông một cách trìu mến: “Ba con người trong một con người thâm thấp”. Có một điều đặc biệt, chính con người thâm thấp ấy đã phân thân thành 3 con người khác nhau, mà con người nào cũng “ra hồn ra vía” cả.
FRANCOIS BUSNELKiran Desai là nữ văn sĩ người Ấn Độ. Cô sinh năm 1971 tại Dehli. Là con gái của nữ tiểu thuyết gia Anita Desai. Kiran Desai lớn lên và học tiểu học ở Dehli đến năm 14 tuổi. Sau đó, cô cùng mẹ sang Anh Quốc, rồi Hoa Kỳ, học trung học ở tiểu bang Massachussettes. Cô theo học lớp viết văn ở Virginie và sau đó học Đại học Columbia ở NewYork.
TRẦN HUYỀN SÂM Một mùa đông ở Stockholm của Agneta Pleijel là một hiện tượng nghệ thuật độc đáo, tiêu biểu cho tính chất “đả phá thể loại” của tiểu thuyết hiện nay. Tác phẩm dung nạp nhiều đặc tính của tiểu thuyết Châu Âu hậu hiện đại: Phép giản lược tối thiểu, lối kể chuyện tung hứng, thủ pháp lạ hoá hình thức văn bản tác phẩm, đặc biệt là kiểu tự thuật “đánh tráo” chủ thể trần thuật.