Người khai sinh địa danh lịch sử Điện Biên Phủ

15:48 03/08/2009
MAI KHẮC ỨNGCó thể sau khi dẹp được loạn 12 sứ quân, Đinh Tiên Hoàng (968- 979) thống nhất lãnh thổ và lên ngôi hoàng đế, đã đặt được cơ sở ban đầu và xác định chủ quyền Đại Cồ Việt lên tận miền biên cương Tây Bắc vốn là địa bàn chịu ảnh hưởng Kiểu Công Hãn. Trên cơ sở 10 đạo thời Đinh nhà vua Lý Thái Tổ (1010- 1028) mới đổi thành 24 phủ, lộ. Nguyễn Trãi viết Dư địa chí (thế kỷ XV) vẫn giữ nguyên tên gọi đạo Lâm Tây. Tức vùng Tây- Bắc ngày nay.

Điện Biên Phủ - Ảnh: dulichvietnam.asia

Thời Lê, đạo Lâm Tây thuộc ngoại trấn Hưng Hoá. Các tỉnh Phú Thọ, Yên Bái, Lào Cai, Sơn La, Lai Châu, Điện Biên ngày nay nằm dưới sự quản lý của trấn này. Nhưng, cũng như dưới thời Lý, Trần, nhà Lê tuy đã xác lập chủ quyền lãnh thổ và biên giới quốc gia, vẫn áp dụng chính sách ki mi để quản lý cư dân vùng biên cương Tổ quốc như các triều đại trước. Nghĩa là cai trị lỏng lẻo bằng hình thức ban thưởng hoặc hôn nhân để ràng buộc về mặt tình cảm hơn là cơ chế tổ chức.

Đến lượt nhà vua Nguyễn Thánh Tổ (1820- 1841), với nhận thức và quyết tâm xây dựng một nước Đại Nam thống nhất, phú cường nên đã thực hiện một cuộc cách mạng về tổ chức quản lý đất nước. Cải cách hành chính trong những năm 1831- 1832 dưới thời Minh Mệnh nằm trong chủ trương củng cố chế độ quân chủ tập quyền đồng nhất với việc xây dựng và củng cố nền thống nhất quốc gia.

Điều đó không tránh khỏi sự phản ứng của một số tù trưởng thuộc các bộ tộc miền núi quen sống theo luật tục thế tập vị kỷ địa phương. Nông Văn Vân, mà nhiều nhà sử học mác xít coi là lãnh tụ nông dân cũng nằm trong thế lực "anh hùng nhất khoảnh" này.

Năm Minh Mệnh thứ 19 (1840), vùng biên cương Tây- Bắc nước Đại Nam bất yên. Một vài tù trưởng địa phương câu kết với nước Nam Chưởng hoặc cầu viện quân Xiêm sang đánh phá. Binh lính giữ bảo Ninh Biên (đồn giữ an ninh biên giới) không nhiều, nên tiến sĩ Ngụy Khắc Tuần, Bố chính kiêm Hộ lý ấn Quan phòng Tuần phủ Hưng Hoá mới cấp báo về triều đình Huế:

"Thuộc hạt ấy một dải tả hữu sông Đà về các châu Đà Bắc, Mộc Yên (nay là Mộc Châu và Yên Bái), nguyên có dân xã Thạch Bi ở Ninh Bình lưu tán ở đấy nhiều, từ trước vẫn không có đăng lý vào sổ. Xin kiểm xét số người, lập làm thôn ấp, phải chịu thuế, cho việc cai trị có thống nhất. Lại nói bảo Ninh Biên giáp liền nước Nam Chưởng, xin dồn lại lập thành đội Ninh Biên, lệ thuộc vào bảo (đồn) ấy".

Vua y cho.

Nhà vua Nguyễn Thánh Tổ băng hà, Miên Tông Nguyễn Phúc Tuyền lên nối ngôi (Tân Sửu- 1841), Ngụy Khắc Tuần dâng sớ xin đặt Phủ Điện Biên với lý do như sau:

"Châu Ninh Biên thuộc vào đồ bản nước ta đã lâu rồi, không phải mới một ngày thôi. Duy nước Nam Chưởng nhận làm đất cũ, rồi gây rối hiềm khích. Khi trước, thổ quan (xin hiểu là tù trưởng) mưu cầu cho vô sự, nên đem vàng đút lễ họ, đến khi đặt lưu quan (thời Minh Mệnh), thì họ không được gì, mới viện dẫn người Xiêm kéo đến lấn cướp. Vả lại, đồn ở châu ấy, không có thành trì vững chắc, sức binh thì yếu và ít, không đủ dùng, dân cư thì không thành thôn trại gì, vừa mới nghe tin giặc đến đã chạy trốn liền ngay. Nếu không qua một phen xếp đặt, thì mối lo ở cõi ven, còn chưa trừ hết được. Huống chi là châu ấy đất rộng, người ít, lại ở thượng du, làm phên che cho 10 châu ở phía bắc sông Đà, thì không gì bằng mộ dân đến ở nơi ấy cho đông để tự phòng thủ lấy, mới là kế sách lâu dài. Nay xin đem nơi đồn của châu ấy đặt làm phủ ĐIỆN BIÊN, kiêm lý châu Ninh Viễn, và lấy nơi Lai Châu gần đấy, lại thêm Tuần Giáo vào nữa, đặt chức Tri phủ, Quản phủ, mộ 300 binh dũng đóng giữ. Rồi lại chiêu tập dân lưu tán, dân trú ngụ khẩn ruộng cày cấy, đổi chác buôn bán, để dần dần làm thành cơ chỉ, ngõ hầu việc phòng bị ở cõi biên ngày có thể hoàn toàn được.

Vua Thiệu Trị y theo và hạ Dụ: Ngụy Khắc Tuần vỗ họp dân cõi biên, mở thành một phủ, có công kiến nghị ra trước, việc thành, giao Bộ bàn xét công thưởng".
(Đại Nam liệt truyện, Nhà xuất bản Thuận Hoá, 1993)

Ngụy Khắc Tuần, hiệu là Thiện Phủ, ra đời năm Kỷ Mùi (1799), tại xã Xuân Viên (cùng quê với Đại Thi hào Nguyễn Du), huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh, thi Hương, đỗ Cử nhân khoa Tân Tị (1821) tại trường thi Nghệ An, thi Hội, đỗ Tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Bính Tuất (1826), làm quan trải ba triều vua: Minh Mệnh, Thiệu Trị, Tự Đức. Ông là một vị quan mẫu mực về đức mẫn cán, thanh liêm, nên được cả ba nhà vua tin dùng. Riêng vua Tự Đức còn ban thơ, và truy tặng chức "Hiệp biện đại học sĩ".

            Su đình thuật chức triển đan thầm
            Bảo chướng hoàn kỳ lệ nhĩ thâm.
            Học đạo dã năng suy tự đạo,
            Dân tâm như thử, tức dư tâm.
            Nhất phương trữ kiến Cam Đường hoá,
            Tam khẩn trùng thinh mạch tuệ âm.
            Lô thuỷ, Tản sơn vô hạn hứng,
            Cánh tương nhã tục kí thanh ngâm.
                        (Thơ vua Tự Đức tặng Ngụy Khắc Tuần)

Phỏng dịch:

            Lòng thành bày tỏ trước sân đình,
            Phụ mẫu cần lao với chúng sinh.
            Học đạo gắng lo làm chính đạo,
            Dân lành, giáo hoá bởi vua lành.
            Cam Đường hưng phát không còn chậm,
            Ba tỉnh (1) mừng vui sự nghiệp thành.
            Núi Tản, sông Lô nguồn cảm hứng,
            Cao siêu, bình dị vẹn tâm tình.

Cam Đường là biểu tượng ca ngợi đức thanh liêm chính lệnh mà người xưa dành để tuyên dương ghi nhớ Thiệu Bá đời nhà Chu bên Trung Quốc. Ngụy Khắc Tuần cũng được nhà vua Nguyễn Dực Tông coi như Cam Đường- Thiệu Bá của Việt Nam, nên một địa điểm thuộc trấn Hưng Hoá xưa, nơi mà Ngụy Khắc Tuần đã từng qua lại, được mang tên Cam Đường (nay thuộc tỉnh Lào Cai), chính là để ghi dấu kỷ niệm tấm gương thanh liêm, mẫn cán của Ngụy Khắc Tuần, người khai sinh địa danh lịch sử ĐIỆN BIÊN PHỦ.

Thiết nghĩ, 163 năm đã qua, từ đồn Ninh Biên, với mơ ước yên ổn nơi biên cương Tổ quốc, Ngụy Khắc Tuần đã lập phủ Điện Biên, nay thành tỉnh Điện Biên nổi tiếng thế giới và Cam Đường sầm uất, đã được nâng lên tầm thị xã, nên chăng dành cho người đã từng nặng lòng với những mảnh đất thân yêu này một con đường xứng đáng mang tên: Ngụy Khắc Tuần.

M.K.Ư
(183/05-04)

-----------------------
(1) Ba tỉnh Sơn Tây, Tuyên Quang, Hưng Hoá. (xin xem thêm “Khiêm lăng và vua Tự Đức”, NXB Thuận Hoá Huế 2004).

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • LTS: Marcel Reich-Ranicki, sinh năm 1920, người ở Đức được mệnh danh là "Giáo hoàng văn học", là nhà phê bình văn học đương đại quan trọng nhất của CHLB Đức. "Một lời biện hộ cho thơ" là bài thuyết trình đọc vào ngày 30.11.1980 nhân dịp ra mắt Tập 5 của "Tuyển thơ Frankfurt" trong khuôn khổ chuyên mục thơ của nhật báo "Frankfurter Allgemeine Zeitung" (FAZ) mà tác giả là chủ biên phần văn học từ 1973 đến 1988.Sông Hương xin trân trọng giới thiệu bài "Một lời biện hộ cho thơ" của ông sau đây do dịch giả Trương Hồng Quang thực hiện.

  • TRẦN HUYỀN SÂMGeorge Sand (1804-1876) là một gương mặt độc đáo trên văn đàn Pháp thế kỷ XIX. Cùng thời với những cây bút nổi tiếng như: A.Lamartine, V.Hugo, A.Vigny, A.Musset... nữ sĩ vẫn tạo cho mình một tầm vóc riêng không chìm khuất. George Sand bước vào thế giới nghệ thuật bằng một thái độ tự tin và một khát vọng sáng tạo mãnh liệt. Với hơn hai mươi cuốn tiểu thuyết đồ sộ, G.Sand đã trở thành một tên tuổi lừng danh ngay từ đương thời. Dĩ nhiên, bà lừng danh còn bởi nhiều mối tình bất tử, trong đó có nhà thơ Pháp nổi tiếng A.Musset và nhạc sĩ thiên tài Chopin người Ba Lan.

  • PHẠM QUANG TRUNGCó lần, dăm ba người có thiên hướng lý luận chúng tôi gặp nhau, một câu hỏi có thể nói là quan thiết được nêu ra: trong quan niệm văn chương, e ngại nhất là thiên hướng nào? Rất mừng là ý kiến khá thống nhất, tuy phải trải qua tranh biện, không đến nỗi quyết liệt, cũng không phải hoàn toàn xuôi chiều hẳn. Có lẽ thế mới hay!

  • NGUYỄN HỮU HỒNG MINH1- "Thơ trẻ- Những giá trị mới" là một "mưu mô" của nhà phê bình trẻ Nguyễn Thanh Sơn và nhóm "Văn nghệ mới" (bao gồm Nguyễn Hữu Hồng Minh, Văn Cầm Hải, Phan Huyền Thư, Ly Hoàng Ly, Nguyễn Vĩnh Tiến, Dạ Thảo Phương... và một số người khác) dự tính tập hợp, tuyển chọn 1 tuyển thơ của 10 (hay nhiều hơn) tác giả trẻ từ 30 tuổi trở xuống, xuất hiện trong vòng 3 năm cuối cùng của thế kỉ để trình làng giới thiệu chân dung thế hệ mình.

  • NGUYỄN HOÀN Trịnh Công Sơn là một hiện tượng độc đáo của âm nhạc và văn hoá Việt Nam được ái mộ không chỉ ở trong nước mà cả ở nước ngoài. Vì thế mà từ khi ông qua đời đến nay đã có trên chục đầu sách viết về ông, một số lượng hiếm thấy đối với các nhạc sĩ khác. Gần đây có cuốn “Trịnh Công Sơn vết chân dã tràng” của Ban Mai do Nhà xuất bản Lao Động, Trung tâm Văn hoá Ngôn ngữ Đông Tây xuất bản, Hà Nội, 2008. Với niềm ngưỡng mộ tài hoa và nhân cách nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, tôi đã hăm hở tìm đọc cuốn sách mới này nhưng tiếc thay, chưa kịp trọn nỗi mừng đã phải thất vọng về những trang viết đánh giá đầy sai lệch và thiếu sót, phiến diện về Trịnh Công Sơn và chiến tranh Việt Nam.

  • HOÀNG QUỐC HẢIThơ Lý - Trần có mạch nguồn từ Đinh - Lê, nếu không muốn nói trước nữa. Rất tiếc, nguồn tư liệu còn lại cho chúng ta khảo cứu quá nghèo nàn.Nghèo nàn, nhưng cũng đủ tạm cho ta soi chiếu lại tư tưởng của tổ tiên ta từ cả ngàn năm trước.

  • NGUYỄN VĂN THUẤN          (Nhóm nghiên cứu - lý luận phê bình trẻ)Thời gian gần đây, tại Việt , các tác phẩm của nhà văn Nhật Bản H.Murakami thường xuyên được dịch và xuất bản. Là một giọng nói hấp dẫn trên văn đàn thế giới, sáng tác của ông thu hút đông đảo công chúng và dành được nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu, phê bình. Một trong những tiểu thuyết làm nên danh tiếng của ông là Rừng Nauy.

  • PHAN TÂMQuê hương Phan Đăng Lưu, xã Hoa Thành, huyện Yên Thành, cách Kim Liên, Nam Đàn, quê hương Hồ Chí Minh khoảng 60 km.Hai nhân cách lớn của đất Nghệ An. Không hẹn mà gặp, xuất phát từ lương tri dân tộc, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, đến chủ nghĩa Mac - Lê nin, thành hai chiến sĩ cộng sản Việt Nam nổi tiếng.

  • THÁI DOÃN HIỂUNhà thơ Võ Văn Trực thuộc loại tài thì vừa phải nhưng tình thì rất lớn. Chính cái chân tình đó đã giúp anh bù đắp được vào năng lực còn hạn chế và mong manh của mình, vươn lên đạt được những thành tựu mới đóng góp cho kho tàng thi ca hiện đại của dân tộc 4 bài thơ xuất sắc: “Chị, Vĩnh viễn từ nay, Thu về một nửa và Nghĩa địa làng, người ta sẽ còn đọc mãi.

  • HÀ  ÁNH MINHBài thứ nhất, Một cuộc đời "Ngậm ngải tìm trầm" của Vương Trí Nhàn, đăng trên tạp chí Diễn đàn văn nghệ Việt Nam số Xuân Canh Thìn năm 2000, và bài thứ hai "Sư phụ Thanh Tịnh làm báo tết" của Ngô Vĩnh Bình, đăng trên báo Văn Nghệ, số Tết cũng năm Canh Thìn 2000. Bài đầu tiên viết dài, giọng văn trau chuốt điệu nghệ. Bài sau ngắn, mộc mạc.

  • LÊ THỊ HƯỜNGDẫu mượn hình thức của thể kí, dẫu tìm đến vần điệu của thơ, điểm nhất quán trong sáng tác của Hoàng Phủ Ngọc Tường là một cái tôi say đắm thiên nhiên. Đằng sau những tài hoa câu chữ là một cái tôi đa cảm - quá chừng là đa cảm - luôn dành cho cỏ dại những tình cảm lớn lao.  

  • BỬU NAM1. Nếu văn xuôi hư cấu (đặc biệt là tiểu thuyết) chiếm vị trí hàng đầu trong bức tranh thể loại của văn học Mỹ - La tinh nửa sau thế kỷ XX, thì thơ ca của lục địa này ở cùng thời gian cũng phát triển phong phú và rực rỡ không kém, nó tiếp tục đà cách tân và những tìm tòi đổi mới của những nhà thơ lớn ở những năm 30 - 40.

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP1. Khi chạm vào cơn lốc và những điệu rock thơ mang tên Vi Thuỳ Linh, bất chợt tôi nhớ đến câu thơ dịu dàng và sâu thẳm của Paul Eluard: Trái đất màu xanh như một quả cam. Với P. Eluard, tình yêu là một thế giới tinh khiết, rạng rỡ và ngọt ngào: Đến mức tưởng em khỏa thân trước mặt. Còn Vi Thuỳ Linh, nếu ai hỏi thế giới màu gì, tôi đồ rằng nàng Vi sẽ trả lời tắp lự: Màu yêu.

  • HÀ VĂN LƯỠNG1. Cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại của nhân dân Xô Viết là một bản anh hùng ca bất tử của dân tộc Nga trong thế kỷ XX (1941-1945). Nó mãi mãi đi vào lịch sử vẻ vang và oanh liệt, không chỉ của đất nước Xô Viết mà còn cả với nhân loại tiến bộ yêu chuộng hòa bình trên thế giới, khẳng định bản chất tốt đẹp và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của con ngưòi Xô Viết.

  • LƯƠNG THỰC THULTS: Lương Thực Thu, sinh năm 1903 tại Bắc Kinh, thời nhỏ học ở trường Thanh Hoa. Năm 1923 du học tại Mỹ. Năm 1926 về nước, lần lượt dạy học ở trường Đại học Đông Nam, Đại học Thanh Đảo, Đại học Bắc Kinh, và Đại học Sư phạm Bắc Kinh. Năm 1949 sang ở Đài Loan, chủ yếu giảng dạy ở Đại học Sư phạm Đài Loan. Năm 1966 nghỉ hưu, năm 1987 ốm chết tại Đài Bắc.

  • NGUYỄN XUÂN HOÀNG   (Đọc “Lý luận và văn học”, NXB Trẻ 2005 của GS.TS Lê Ngọc Trà)Ra mắt bạn đọc năm 1990, năm 1991, cuốn sách “Lý luận và văn học” của Giáo sư - Tiến sĩ Lê Ngọc Trà được trao giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam. 15 năm qua, những tưởng một số vấn đề về lý luận văn học mà cuốn sách đề cập đã không còn mới, đã “lạc hậu” so với tiến trình phát triển của văn học. Nhưng không, khi đọc lại cuốn sách được nhà xuất bản Trẻ tái bản lần thứ nhất năm 2005, những vấn đề mà GS.TS Lê Ngọc Trà đề cập vẫn còn nóng hổi và giữ nguyên tính thời sự của nó.

  • TRẦN ĐÌNH SỬLí luận văn học Việt Nam thế kỉ XX đã trải qua ba lần thay đổi hệ hình tư duy. Lần thứ nhất diễn ra vào những năm 1932 đến 1945 với việc hình thành quan niệm văn học biểu hiện con người, xã hội, lấy thẩm mĩ làm nguyên tắc, chống lại quan niệm văn học thời trung đại lấy tải đạo, giáo huấn, học thuật làm chính tông, mở ra một thời đại mới trong văn học dân tộc.

  • HỒ THẾ HÀĐà Linh - Cây bút truyện ngắn quen thuộc của bạn đọc cả nước, đặc biệt, của Đà Nẵng với các tác phẩm Giấc mơ của dòng sông (1998), Nàng Kim Chi sáu ngón (1992),Truyện của Người (1992) và gần đây nhất là Vĩnh biệt cây Vông Đồng (1997). Bên cạnh ấy, Đà Linh còn viết biên khảo văn hoá, địa chí và biên dịch.

  • NGÔ MINHBữa nay, người làm thơ đông không nhớ hết. Cả nước ta mỗi năm có tới gần ngàn tập thơ được xuất bản. Mỗi ngày trên hàng trăm tờ báo Trung ương, địa phương đều có in thơ. Nhưng, tôi đọc thấy đa phần thơ ta cứ na ná giống nhau, vần vè dễ dãi, rậm lời mà thiếu ý.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ     Ba công trình dày dặn nghiên cứu về Chủ tịch Hồ Chí Minh của cùng một tác giả, cùng được xuất bản trong năm 2005 kể cũng đáng gọi là "hiện tượng" trong ngành xuất bản. Ba công trình đó là "Hồ Chí Minh - danh nhân văn hóa" (NXB Văn hóa Thông tin, 315 trang), "Hồ Chí Minh - một nhân cách lớn" (NXB Văn hóa thông tin, 510 trang) và "Đạo Khổng trong văn Bác Hồ" (NXB Đại học quốc gia Hà Nội, 375 trang).