Người đương thời bình luận Thơ mới xứ Huế trên ‘Tràng An báo’ (1935 - 1945)

15:04 09/08/2022

NGUYỄN  HỮU SƠN

Trong giới hạn cụ thể, có thể xác định tương quan phê bình và sáng tác trên địa bàn xứ Huế như một vùng văn hóa và trung tâm phát triển Thơ mới  tiêu biểu trong cả nước, đồng thời nhấn mạnh ý nghĩa hoạt động phê bình Thơ mới trên Tràng An báo như một hiện tượng “người đương thời Thơ mới xứ Huế tiếp nhận Thơ mới xứ Huế” (chưa bàn đến các tác giả Thơ mới ở hai miền Bắc và Nam đất nước).

Tràng An Báo 1939 - số 408 - Ảnh: baochi123.info

Ra đời vào giai đoạn báo chí phát triển mạnh mẽ, Tràng An báo (số 1, ra ngày 1/3/1935) - sau này còn được định danh là Tràng An, Tràng An (Tập mới), Tràng An (Bộ mới), Tràng An (Mới) - đã mau chóng nhập cuộc hoạt động truyền thông nói chung cũng như gắn kết chặt chẽ với phong trào Thơ mới. Tòa soạn báo đặt tại Nhà in Đắc Lập, số 43 đường Paul Bert (Huế), từ tháng 7/1942 chuyển về số 2, rue Bobillot. Tràng An báo do doanh nhân Bùi Huy Tín (1876-1963) sáng lập và làm chủ nhiệm (bà Lucie Saillard làm chủ nhiệm từ tháng 7/1942) và nối dài cho đến cuối năm 1945; chủ bút và thư ký tòa soạn là các ông Phan Khôi, Lê Thanh Cảnh, Hoàng Thiếu Sơn, Nguyễn Đức Phiên (Hoài Chân)…

Trước hết, Tràng An báo và Thơ mới trên Tràng An báo xuất hiện sau sự khởi đầu phong trào Thơ mới (tháng 2/1932) chừng ba năm gắn với tên tuổi các tác giả (thống kê theo thời gian xuất hiện): Nam Trân, Bửu Kế, Q.U, D. Loilfinne, Đỗ Huy Nhiệm, Ph., Hạnh Sơn Trần Quốc Trinh, Trà Ngân (Lê Ngọc Vượng), Dương Phủ, Như Thao, Phạm Ngọc Doãn, Hoàng Sơn, Gia Xạ, Kiêm Thu, Nguyễn Hữu Quế, Mộng Huyền, Kim Phượng, Song Nhất Song, Nhạc Lang, Nguyễn Anh, D.V.D, Kỉnh Chi, Hoài Sơn, Dã Hạc, Duy Từ, Đình Quang Hoàng Liệu, T.B, Văn Nghĩa, Vân Khanh, Anh Triệu, Văn Tịnh, Nam Xuyên, Quật Đình, Nhược Thủy Lương Khanh, Triệu Khanh, Như Không, Mộng Di, Hán Thu Nguyễn Tiến Lãng, Phục Thần U.L, Mme I.M, Bàn Lãnh Phan Thanh Thừa, Hàn Mặc Tử (di cảo), Nguyễn Hạnh Đàn, Tế Hanh, v.v. Có thể thấy hầu hết các tác giả là người xứ Huế, hoặc đã nhập tịch xứ Huế, thành danh trên đất Huế, một số cộng tác viên thuộc các tỉnh miền Trung (Quảng Trị, Đà Nẵng, Quảng Nam, Bình Định…) và số nhỏ thuộc hai đầu đất nước (Hà Nội - Sài Gòn)… Về phía các cây bút phê bình có thể kể đến (xếp theo thời gian xuất hiện): Phan Khôi, Hoài Thanh, Đức Ninh, Lâm Toại, Đại Lượng, Lưu Trọng Lư, Lưu Kỳ Linh, Đức Ninh, Chương Đài, Nguyễn Huy Nhu, Ngô Hữu Thời, Hán Thu Nguyễn Tiến Lãng, Trần Thanh Mại, Lệ Khanh, Hàn Mặc Tử, Trần Thanh Địch, Xuân Phương, Thanh Địch, Xuân Tâm, Ứng Sơn, Nguyễn Mạnh Bổng, Nguyễn Thống, Hà Xuân Tế, Minh Châu, Nguyễn Văn Thư, Bắc Hà, Long Thành, Hương Giang, Phố Xuyên, Ngô Việt, Hoàng Diệp, Vương Lập Nguyên, Tài Xuyên, Bùi Tuân, Trúc Khê Ngô Văn Triện, Quách Tấn, Bửu Đồng, Đỗ Hữu Phú, v.v.

Theo thời gian, Nam Trân (1907-1967), quê gốc Quảng Nam, trong khoảng thời gian 1930-1945 từng giữ chức Tham tá tòa Khâm sứ, Tá lý và Thị lang Bộ Lại tại Huế, ngay khi Tràng An báo ra số đầu tiên đã có thơ và xuất hiện liên tục với các bài Trước chùa Thiên Mụ, Huế, mùa hạ I, Chôn hoa, Khóa xuân, Hái hoa hồng, Cảnh quê,… tạo nên một cơn “sốt thơ”. Độc giả đương thời thực sự hứng khởi, say mê lối thơ trữ tình tân kỳ của ông. Khả năng chinh phục và sức cuốn hút của thơ Nam Trân mạnh mẽ đến mức tòa soạn hoan hỷ quảng bá trên nhiều kỳ báo: “Sau này bản báo sẽ mở một cuộc thi lớn mà trong đó có một đầu đề thi quan hệ về thơ Nam Trân. Vậy, ai muốn dự cuộc thi ấy nên cắt bài thơ Nam Trân trong mỗi số mà giữ lại, phòng khi sẽ phải gửi những mảnh báo có thơ Nam Trân ấy cho Bản báo mới được dự cuộc thi ấy chăng”(1).

Đương thời thơ Nam Trân đã được nhà khai sáng phong trào Thơ mới Phan Khôi (Ngọa Du Nhân) chào đón, bình điểm trên báo Sông Hương (1936), kịp đến khi xuất bản thành tập Huế, Đẹp và Thơ (1939) lại tiếp tục được Tản Đà nhận xét, góp ý và ngay sau đó được Trần Đằng tổng thuật, xác định: “Tập Huế, Đẹp và Thơ của Nam Trân trước khi ra đời đã được văn sĩ Phan Khôi chú trọng. Năm 1936, trên tờ báo Sông Hương, chúng ta đã được thấy bài phê bình của ông Phan. Kịp đến lúc tập thơ ấy xuất bản, ông Tản Đà cũng góp lời phê phán. Điều đáng chú ý là hai bực cự nho đều đồng thanh khen ngợi thơ Nam Trân về nhạc điệu và cũng đều đồng thanh trách ông Nam Trân “chưa dụng công về vần”. Dưới đây, chúng tôi xin đăng hai bài của hai ông Nguyễn Khắc Hiếu và Phan Khôi và nhắc lại lời của ông Nam Trân thay lời kết luận (…). Kết luận - Lời của ông Nam Trân: Trong một buổi nói chuyện với ông Nam Trân, chúng tôi có hỏi ý kiến ông về “Vần”. Tươi cười ông nói rằng: “Ông Chương Dân và ông Tản Đà trách tôi không dụng tâm về vần, lời trách ấy thật xác đáng. Nhưng xin thú thật, đối với thơ, tôi trọng nhất là nhạc điệu, thứ hai là ý tưởng, thứ ba là vần. Có lẽ vì thế mà tôi không phải là một thi gia, nhất là một thi gia theo luật thơ chuyên chế đời Đường”(2)… Ngay sau đó, bình giả Ứng Sơn giới thiệu và đánh giá cao tập thơ trước hết ở sự gắn bó với xứ Huế: “Bây giờ tôi lại được đọc tập Huế, Đẹp và Thơ của Nam Trân thi sĩ vừa mới xuất bản. Từ Cô gái Kim Luông cho đến Trên Núi Ngự, đem hết vẻ đẹp của Huế miêu tả ra một bức thiên nhiên tuyệt diệu, khiến người đọc đến mà tưởng tượng được cảnh vật Đế đô thanh kỳ yểu điệu đến thế nào… Nam Trân đã cho ta thấy cái tuyệt mỹ của Huế, đã đánh thức tâm hồn ta và đưa ta vào cái cảnh đẹp như mơ ấy một cách nhẹ nhàng êm ái, và hơn thế nữa, Nam Trân đã họa một bức tranh 100% Huế. Tôi còn biết nói gì về bài thơ này nữa. Tôi chỉ nói một tiếng, một tiếng mà thôi: Tuyệt!”; đồng thời với việc nhấn mạnh sắc thái thẩm mỹ và chất trữ tình: “Đọc qua các đoạn trên ta đã biết thi tài của nhà thi sĩ ấy rồi, cái thi tài ấy đã đưa Nam Trân vào một địa vị khả quan trong thi giới mà tập Huế, Đẹp và Thơ quả là một bức tranh gồm có những “cảnh đẹp như mơ” của Huế. Bây giờ, nếu cần phải hạ một lời phê bình vô tư, thì tôi không còn ngần ngại gì mà nói rằng: “Nam Trân là một thi sĩ chuyên về lối tả cảnh, tả cảnh một cách tuyệt mỹ”(3)… Tiếp đó Từ Lâm (Nguyễn Xuân Nghị) trong tư cách bạn bè thêm một lần tỏ lòng mến mộ, bình giảng cái hay cái đẹp của thơ Nam Trân và gợi nhớ, so sánh với nguồn thơ Mạnh Hạo Nhiên (689-740) và Alphonse de Lamartine (1790-1869)(4).

Nhà thơ Phan Văn Dật (1907-1987) sinh tại phủ An Thường công chúa, xóm Xuân An, làng Phú Xuân (nay thuộc phường Vĩnh Ninh, thành phố Huế; quê gốc tỉnh Quảng Trị), sau khi in tập thơ Bâng khuâng (1936) đã được nhà phê bình Hoài Thanh phân tích, bình giảng kỹ lưỡng, ghi nhận những mặt mạnh về cảm xúc, tứ thơ, hình ảnh thi vị: “Ông Phan Văn Dật cách đây không lâu có ra một quyển truyện đề là Diễm Dương trang. Tôi đã có dịp nói ý kiến của tôi về quyển truyện ấy. Vừa rồi lại được xem quyển Bâng khuâng, một tập thơ ông mới xuất bản. Xin nói ngay rằng quyển Bâng khuâng có giá trị hơn quyển Diễm Dương trang nhiều, mặc dầu một tập thơ và một quyển truyện không thể so sánh với nhau được… Trong làng văn, ông Dật thuộc về phái thanh niên. Nhưng có lẽ ông chỉ thanh niên vì tuổi ông. Còn thơ của ông thực không thanh niên một tí nào. Trong lúc một luồng không khí trẻ trung thúc giục người ta hăng hái thoát ly ra ngoài sự ràng buộc của gia đình, ông Dật đã dám ca tụng cái tình cha con, anh em; sách của ông, ông đề tặng song thân, tưởng ngày nay cũng là một điều ít có. Những điều ông mơ ước cũng giống hệt những điều mơ ước của các cụ ta ngày xưa: một cuộc đời bình dị và chất phác ở nơi thôn dã”; đồng thời cân bằng góp ý với những giới hạn, sự đơn giản, yếu kém: “Thơ của ông có giọng buồn, chán, ghét thị thành, ghét cả cuộc đời hoạt động (…). Ông Phan Văn Dật đã tránh được sự lố lăng. Thơ của ông có vẻ tự nhiên. Được thế cũng vì ông khéo chọn những đề phần nhiều chung cho xưa nay, khéo suy diễn những thường tình trong lòng người: tình đối với cuộc đời, với núi non hoa cỏ, tình yêu người đàn bà đẹp, tình thương kẻ đau khổ, kẻ nghèo nàn. Thơ của ông không rực rỡ, không réo rắt, không hùng tráng; ông chỉ tả những mối tình nhẹ nhàng, kín đáo, âm thầm và tả khéo. Ông say sưa vì vẻ đẹp thoáng qua trước mắt. Tập thơ của ông cũng là một hòn ngọc có vết, có nhiều vết... Ông dễ tính quá. Chỗ này là chỗ tôi trách ông. Hình như ông Dật không chịu trau dồi gọt dũa câu thơ của mình. Có khi ta đọc cả đoạn thơ đương hay bỗng vấp phải một câu một chữ không sao đọc đi được. Xem thơ gặp những lúc ấy thật bực mình. Tưởng ông nên bỏ bớt, nên sửa lại thì hơn”(5). Những nội dung này sau được Hoài Thanh toát yếu đưa vào sách Thi nhân Việt Nam, 1932-1941 (1942)…

Trong bài viết có tính tổng hợp thơ xuân, nhà phê bình Trần Thanh Địch quê Huế bình điểm thơ Hàn Mặc Tử, Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Thanh Tịnh, Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Nguyễn Nhược Pháp và thơ Phan Văn Dật:

“Đi cạnh Xuân Diệu, ta hãy nghe Phan Văn Dật bâng khuâng với những nỗi buồn xuân tha thiết:

Vừa mới đông qua, xuân mới về,
Nắng hè gay gắt đuổi xuân đi!
Thôi còn đâu cảnh xuân êm dịu,
Hoa nở, trời trong, bao vẻ thi?...
                                   
(Buồn xuân)

Mùa xuân với Phan Văn Dật là cuộc ái ân phơi phới đầu mùa của một đôi nhân tình đang tha thiết yêu nhau. Trong lúc say sưa với tình yêu, không ai có thể cứ thản nhiên trọn hưởng tình yêu hiện tại. Bao giờ trong óc mỗi người cũng còn nghĩ đến một giờ phân ly sẽ ngẫu nhiên xảy đến. Hơn nữa, người ta cứ luôn luôn sợ hãi cái “rồi đây”.

Cũng như tuổi trẻ, trẻ để có già; xuân đến, đến để có đi. Buồn xuân, cũng như những thơ khác của thi sĩ, ta thấy đầy rẫy những tình cảm mến tiếc, những bâng khuâng luyến ái, chập chờn lẩn quất trong ý, trong câu. Đọc văn thơ của các thi sĩ, có khi ta buồn chết dạ, có khi buồn tê tái, có khi buồn rười rượi, có khi buồn man mác, có khi buồn bâng khuâng. Phan Văn Dật đã làm lòng ta lảo đảo theo thứ buồn mơn trớn sau cùng ấy. Hai câu đầu tiên của Buồn xuân đọc đang xuôi, đệm ngay liều xuống: “Thôi còn đâu cảnh xuân êm dịu./ Hoa nở, trời trong, bao vẻ thi?” làm thấm vào lòng người đọc một ý mến tiếc buồn rầu. Với ý mến tiếc buồn rầu ấy, Phan Văn Dật cảm xuân đã tả những nét uyển chuyển, nhẹ nhàng, dễ thương quá. Người ta có cái cảm tưởng kính trọng, chỉ muốn nâng niu lên đôi tay như một viên ngọc quí”(6).

Đương thời các tác giả Thúc Tề (1916-1946), quê ở làng Mỹ Lam, xã Phú Mỹ, huyện Phú Vang; Nguyễn Đình Thư (1917-?), quê làng Phước Yên (nay thuộc xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền), in thơ trên nhiều báo khác (Công luận, Ngày nay, Hà Nội báo, Văn học tạp chí, Mai, Dân quyền, Đông Dương) nhưng không thấy in thơ và cũng không được nhắc đến trên Tràng An báo(7)…

Riêng Mộng Huyền - Ngụy Mộng Huyền (1919-1997), quê ở thành phố Huế, trong thời gian 1936-1945 có in chí ít 8 bài thơ (Tôi muốn thấy, Hãy trông, Đọc “Khói lam chiều”, Bóng cây dâm mát, Vì thế, Ngẩn ngơ sầu, Tỉnh ngộ, Trở về vườn cũ) nhưng không thấy ai viết bài phê bình, giới thiệu. Khác biệt hơn, Tôn Nữ Thu Hồng (1922-1948), quê làng Thần Phù (nay thuộc phường Thủy Châu, thị xã Hương Thủy), có xuất bản tập thơ Sóng thơ (1940) và in thơ trên báo Thanh niên (1944) nhưng đã sớm được H.X.G giới thiệu trên Tràng An báo:

“Tôi xin thú thật rằng đối với những tập thơ mới xuất bản của nhiều thi sĩ thanh niên ta ngày nay, ngoài một vài người tôi đã quen làm bạn, như ông Thế Lữ, ông Lưu Trọng Lư, ông Xuân Diệu, ông Huy Thông, ông Thái Can, ông Huy Cận, v.v, tôi thấy tôi lo sợ mỗi khi tôi cầm một tập thơ mà xem. Lo sợ mà lại thấy lạnh lùng nữa. Không phải là tôi thờ ơ với thi ca mới cũng không phải là tôi yên trí rằng nhiều thi sĩ thanh niên ngày nay không có biệt tài trong sự làm thơ (…). Đối với quyển Sóng thơ mới ra đời, trước hết tôi cũng lạnh lùng như vậy. Tôi cầm tập thơ nhỏ xinh kia, lật những trang giấy nhanh chóng, rồi tự nói: Lại một tập thơ mới. Lại thi sĩ nữa ra đời. Mà là một nữ thi sĩ, ở Đế Đô, một người trong Hoàng phái... Rồi tôi xem qua cũng nhanh chóng như thế thấy câu hay, câu không hay; nhưng không để ý lắm. Chẳng khác lúc đi qua một vườn hoa của người xa lạ nhìn vào để ngắm cảnh rồi thản nhiên trong giây lát đã bước qua vườn hoa ấy, và đôi mắt đã đưa nhìn khúc đường xa lạ khác (…).

Sự tan tác không phải tấm lòng của cô; chỉ là bao mộng đẹp mà thôi. Khối tình cô khéo đa mang, chỉ là “Cái tình vô hạn”, một mối tình mênh mông bát ngát, nó không chung đúc vào một người, một vật nào, có thể làm đau đớn gắt gao được.

Vì vậy cho nên một tấm yêu,
Lui không nẻo bước, tới cam liều.
Khi yêu nào nghĩ xa xôi nữa,
Mà khổ tình thêm cũng rất nhiều!

Đối với ái tình, xem bốn câu thơ nầy, chúng ta thấy nữ sĩ Thu Hồng, vẫn dùng lời êm dịu mà phân giải, mà nghị luận. Chúng ta có thể nói rằng “thi cảm” của cô không phải là của người mê say; nó còn ở trong vòng khuôn của lý trí nhiều hơn của tình cảm. Sự giản dị, một sự giản dị mà chúng ta có thể gọi là tầm thường, cái “nên thơ” trong mỗi ý nghĩ hằng ngày trong mỗi câu nói đầu lưỡi, trong mỗi cử chỉ xung quanh ta, trong mỗi tư tưởng thông thường, ấy là chốn nữ sĩ Thu Hồng đã khéo đi lượm những vần thơ, đi hái cho ta những cành hoa thơm đẹp. Đó là các đặc điểm, tôi sơ lược theo ý kiến riêng của tôi viết ra sau khi đọc xong tập Sóng thơ của nữ sĩ Tôn Nữ Thu Hồng. Tập thơ in đẹp, có tựa của Đạm Phương nữ sĩ, và tranh vẽ bìa của nữ họa sĩ Mộng Hoa. Chúng tôi xin giới thiệu quyển Sóng thơ với độc giả”(8).

Trong tương quan với Tràng An báo, có thể thấy trong số sáu thi sĩ xứ Huế thành danh được Hoài Thanh - Hoài Chân ghi nhận trong sách Thi nhân Việt Nam, 1932-1941 (1942) có hai người không có mối liên hệ (Thúc Tề, Nguyễn Đình Thư), một người in thơ nhưng chưa thấy bài giới thiệu (Mộng Huyền), hai người in thơ nơi khác vẫn được báo ghi nhận (Phan Văn Dật, Tôn Nữ Thu Hồng), riêng Nam Trân vừa có in thơ với số lượng lớn vừa được Tràng An báo đón chào, giới thiệu trang trọng, góp phần thúc đẩy Thơ mới xứ Huế phát triển sâu rộng.

N.H.S
(TCSH401/07-2022)

----------------------------
(1) Lương An (1941), “Lửa thiêng với Huy Cận” (4 kỳ). Tràng An báo, số 694, ra ngày 11/3, tr.2; số 695, ra ngày 12/3, tr.2; số 696, ra ngày 13/3, tr.2; số 698, ra ngày 15/3, tr.2.
(2) Trần Đằng (1939), “Hai ông Nguyễn Khắc Hiếu và Phan Khôi đã gặp nhau trong Huế, Đẹp và Thơ”, Tràng An, số 408, ra ngày 31/3, tr.1+3.
(3) Ứng Sơn (1939), “Đọc Huế, Đẹp và Thơ của Nam Trân”, Tràng An, số 410, ra ngày 7/4, tr.1+3; số 412, ra ngày 18/4, tr.2.
(4) Từ Lâm (1939), “Đọc Huế, Đẹp và Thơ”, Tràng An báo, số 438, ra ngày 20/7, tr.1+3.
(5) Hoài Thanh (1936), “Nhân xem tập thơ của ông Phan Văn Dật: Những câu thơ dễ thương”, Tràng An, số 188, ra ngày 31/12, tr.2.
(6) Trần Thanh Địch (1938), “Thi sĩ với ngày xuân”, Tràng An báo, số 292, ra ngày 25/1, tr.1+7.
(7) Nguyễn Hữu Sơn (2012), “Người đương thời Thơ mới bàn về thơ Nguyễn Đình Thư”, Sông Hương, số 283, tháng 9, tr.81-84.
(8) H.X.G (1940), “Nữ sĩ Thu Hồng, tác giả Sóng thơ”. Tràng An báo, số 494, ra ngày 15/3, tr.1+3.

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • BẢO CHI                 (lược thuật)Từ chiều 13 đến chiều 15-8-2003, Hội nghị Lý luận – Phê bình văn học (LL-PBVH) toàn quốc do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức đã diễn ra tại khu nghỉ mát Tam Đảo có độ cao 1.000 mét và nhiệt độ lý tưởng 23oc. Đây là hội nghị nhìn lại công tác LL-PBVH 28 năm qua kể từ ngày đất nước thống nhất và sau 54 năm Hội nghị tranh luận Văn nghệ tại Việt Bắc (1949). Gần 200 nhà LL-PB, nhà văn, nhà thơ, nhà báo và khách mời họp mặt ở đây đã làm nóng lên chút đỉnh không khí ôn hoà của xứ lạnh triền miên...

  • ĐỖ LAI THÚY                Văn là người                                  (Buffon)Cuốn sách thứ hai của phê bình văn học Việt Nam, sau Phê bình và cảo luận (1933) của Thiếu Sơn, thuộc về Trần Thanh Mại (1911 - 1965): Trông dòng sông Vị (1936). Và, mặc dù đứng thứ hai, nhưng cuốn sách lại mở đầu cho một phương pháp phê bình văn học mới: phê bình tiểu sử học.

  • ĐẶNG TIẾNThuật ngữ Thi Học dùng ở đây để biểu đạt những kiến thức, suy nghĩ về Thơ, qua nhiều dạng thức và trong quá trình của nó. Chữ Pháp là Poétique, hiểu theo nghĩa hẹp và cổ điển, áp dụng chủ yếu vào văn vần. Dùng theo nghĩa rộng và hiện đại, theo quan điểm của Valéry, được Jakobson phát triển về sau, từ Poétique được dịch là Thi Pháp, chỉ chức năng thẩm mỹ của ngôn từ, và nới rộng ra những hệ thống ký hiệu khác, là lý thuyết về tính nghệ thuật nói chung. Thi Học, giới hạn trong phạm vi thi ca, là một bộ phận nhỏ của Thi Pháp.

  • TRẦN CAO SƠNTriều Nguyễn tồn tại gần 150 năm, kể từ khi Nguyễn Ánh lên ngôi hoàng đế với niên hiệu Gia Long - năm1802, tạo dựng một đế chế tập quyền trên toàn bộ lãnh thổ mà trước đó chưa hề có. Trải qua một thế kỷ rưỡi tồn tại, vinh hoa và tủi nhục, Triều đại Nguyễn là một thực thể cấu thành trong lịch sử Đại Việt. Những cái do triều đình Nhà Nguyễn mang lại cũng rất có ý nghĩa, đó là chấm dứt cuộc nội chiến, tranh giành quyền lực, xương trắng máu đào liên miên mấy thế kỷ, kiến tạo bộ máy quản lý hành chính trung ương tập quyền thống nhất mà Quang Trung - Nguyễn Huệ đã dày công vun đắp gây dựng trước đó. Dân tộc đã phải trải qua những năm tháng bi hùng với nhiều điều nuối tiếc, đáng bàn đáng nói ngay ở chính hôm nay. Song lịch sử là lịch sử, đó là một hiện thực khách quan.

  • TRẦN HUYỀN SÂMNếu nghệ thuật là một sự ngạc nhiên thì chính tiểu thuyết Thập giá giữa rừng sâu là sự minh định rõ nhất cho điều này. Tôi bàng hoàng nhận ra rằng, luận thuyết: con người cao quý và có tình hơn động vật đã không hoàn toàn đúng như lâu nay chúng ta vẫn tin tưởng một cách hồn nhiên. Con người có nguy cơ sa xuống hàng thú vật, thậm chí không bằng thú vật, nếu không ý thức được giá trị đích thực của Con Người với cái tên viết hoa của nó. Phải chăng, đây chính là lời nói tối hậu với con người, về con người của tác phẩm này?

  • HOÀNG NGỌC HIẾN           ...Từ những nguồn khác nhau: đạo đức học, mỹ học, triết học xã hội-chính trị, triết học xã hội-văn hoá... cảm hứng triết luận trong nghiên cứu, phê bình văn học là nỗ lực vượt lên trên những thành kiến và định kiến hẹp hòi trong sinh hoạt cũng như trong học thuật. Những thành kiến, định kiến này có khi lại được xem như những điều hiển nhiên. Mà đã là “hiển nhiên” thì khỏi phải bàn. Đây cũng là một thói quen khá phổ biến trong nhân loại. Cảm hứng triết luận trong nghiên cứu, phê bình có khi bắt nguồn từ suy nghĩ về chính những điều “hiển nhiên” như vậy...

  • THÁI DOÃN HIỂUVào đời, Lưu Quang Vũ bắt đầu làm thơ, viết truyện, rồi dừng lại nơi kịch. Ở thể loại nào, tài năng của Vũ cũng in dấu ấn đậm đà làm cho bạn đọc cả nước đi từ ngạc nhiên đến sửng sốt. Thơ Lưu Quang Vũ một thời được lớp trẻ say sưa chép và thuộc. Kịch Lưu Quang Vũ một thời gần như thống trị sân khấu cả nước.

  • TRẦN THANH ĐẠMTrong lịch sử nước ta cũng như nhiều nước khác, thời cổ - trung đại cũng như thời cận - hiện đại, mỗi khi một quốc gia, dân tộc bị xâm lược và chinh phục bởi các thế lực bên ngoài thì trong nước bao giờ cũng phát sinh hai lực lượng: một lực lượng tìm cách kháng cự lại nạn ngoại xâm và một lực lượng khác đứng ra hợp tác với kẻ ngoại xâm.

  • ĐỖ LAI THUÝLTS: Trong số tháng 5-2003, Sông Hương đã dành một số trang để anh em văn nghệ sĩ Huế "tưởng niệm" nhà văn Nguyễn Đình Thi vừa qua đời. Song, đấy chỉ mới là việc nghĩa.Là một cây đại thụ của nền văn nghệ cách mạng Việt Nam, Nguyễn Đình Thi toả bóng trên nhiều lĩnh vực nghệ thuật. Bằng chứng qua các bài viết về ông sau đây, Sông Hương xin trân trọng dành thêm trang để giới thiệu sâu hơn, có hệ thống hơn về Nguyễn Đình Thi cùng bạn đọc.

  • ĐẶNG TIẾN…Nguyễn Đình Thi quê quán Hà Nội, nhưng sinh tại Luang Prabang, Lào, ngày 20/12/1924. Từ 1931 theo gia đình về nước, học tại Hải Phòng, Hà Nội. Năm 1941 tham gia Thanh Niên cưú quốc, 1943 tham gia Văn hóa cứu quốc, bị Pháp bắt nhiều lần. Năm 1945, tham dự Quốc Dân Đại hội Tân Trào, vào Ủy ban Giải phóng Dân tộc. Năm 1946, là đại biểu Quốc hội trẻ nhất, làm Ủy viên Thường trực Quốc hội, khóa I…

  • HỒ THẾ HÀ          Hai mươi lăm năm thơ Huế (1975 - 2000) là một chặng đường không dài, nhưng nó diễn ra trong một bối cảnh lịch sử - thi ca đầy phức tạp. Cuộc sống hàng ngày đặt ra cho thể loại những yêu cầu mới, mà thơ ca phải làm tròn sứ mệnh cao cả với tư cách là một hoạt động nhận thức nhạy bén nhất. Những khó khăn là chuyện đương nhiên, nhưng cũng phải thấy rằng bí quyết sinh tồn của chính thể loại cũng không chịu bó tay. Hơn nữa, đã đặt ra yêu cầu thì chính cuộc sống cũng đã chuẩn bị những tiền đề để thực hiện. Nếu không, mối quan hệ này bị phá vỡ.

  • JAMES REEVESGần như điều mà tôi hoặc bất kỳ nhà văn nào khác có thể nói về một bài thơ đều giống nhau khi nêu ra ấn tượng về điều gì đấy được in trên giấy. Tôi muốn nhấn mạnh rằng đây không phải là toàn bộ sự thật. Việc in trên giấy thực ra là một bài thơ gián tiếp. Sẽ dễ dàng thấy điều này nếu chúng ta đang nói về hội hoạ hoặc điêu khắc.

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP...Nguyễn Huy Thiệp không phải là người duy nhất đổi mới phương thức trần thuật. Trước ông đã có Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng... tích cực mở đường. Nhưng phải đến Nguyễn Huy Thiệp thì sự khai phóng về tư tưởng nghệ thuật mới được thể hiện một cách đậm nét. Tất cả được Nguyễn Huy Thiệp kiến tạo qua một trò chơi đầy tính bất ngờ. Giống như người nghệ sĩ ba lê tài năng, Nguyễn Huy Thiệp trình diễn một thế giới đa sắc trên đầu những đầu mũi ngón chân. Những ngón chân ấy bám trụ vào hiện thực một cách tinh diệu, xoay chuyển một cách nhịp nhàng với những vòng quay, những vũ điệu ngôn từ...

  • PHAN NGỌC THUTrong nền văn học Việt Nam thế kỷ XX, Xuân Diệu (1916-1985) là một trong những nhà thơ nổi tiếng nhất, đồng thời cũng là nhà phê bình văn học kiệt xuất. Từ những bài tranh luận văn học sôi nổi thời Thơ Mới (1932-1945) đến Tiếng thơ (1951), Những bước đường tư tưởng của tôi (1958); từ Phê bình giới thiệu thơ (1960) đến Trò chuyện với các bạn làm thơ trẻ (1961), Dao có mài mới sắc (1963), Lượng thông tin và những kỹ sư tâm hồn ấy (1978), Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, tập I (1981), tập II (1982) và Công việc làm thơ (1984)... "chỉ tính riêng các tác phẩm lý luận phê bình, đã có thể gọi Xuân Diệu là một đại gia"(1)

  • BÙI QUANG TUYẾNThơ mới là một hiện tượng nổi bật của văn học Việt Nam nói chung và thơ ca nói riêng trong thế kỷ XX. Nó vừa ra đời đã nhanh chóng khẳng định vị trí xứng đáng trong nền văn học dân tộc với các "hoàng tử thơ": Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử v..v...

  • HÀ KHÁNH CHINgày 20 - 3 - 2003, siêu cường lớn nhất mọi thời đại là đế quốc Hoa Kỳ đã mở đầu cuộc chiến tranh kỳ quái nhất trong lịch sử bằng cách tấn công Iraq sau khi đã bắt quốc gia này phải tự phá huỷ vũ khí tự vệ của chính họ. Đó là bài học chưa hề thấy về chút hy vọng cuối cùng mà lương tri nhân loại có thể đòi hỏi. Để có thể hiểu rõ hơn những gì đang xảy ra hôm nay - có lẽ cũng rất cần ôn lại một trong những vấn đề lớn nhất mà loài người có thể nghĩ tới: cuộc chiến tranh Việt Nam đã kết thúc cách đây gần 30 năm.

  • HOÀNG ĐĂNG KHOA Văn học Việt từ sau 1975, nhất là từ thời kỳ đổi mới, là một quá trình văn học rất phong phú, đa dạng và không ít phức tạp, lại còn đang tiếp diễn. Cuốn sách Văn học Việt Nam sau 1975 - Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy ra đời đáp ứng nhu cầu mang tính thời sự: nhu cầu nhìn nhận, đánh giá một cách khách quan, toàn diện về tiến trình văn học ba mươi năm qua, chuẩn bị cho sự ra đời của những công trình văn học sử và những chuyên khảo về giai đoạn văn học này.

  • NGUYỄN QUANG HÀTrong đời có những bài thơ người ta quên, mà chỉ nhớ một câu nằm lòng. Bởi đó là những câu thơ thực sự, những câu thơ thi sĩ. Từ xưa đến nay, đã có rất nhiều định nghĩa về thơ: Thơ là tiếng hát của trái tim; Thơ là hạt muối kết tinh của tình cảm; Thơ là phút giây rung động của tâm hồn... Nói chung, những định nghĩa ấy cho ta hiểu rằng ở đâu có được sự rung động của trái tim thì ở đó có thơ.

  • ĐỖ LAI THUÝPhê bình văn học Việt Nam, sau sự khởi nguồn của Thiếu Sơn với Phê bình và Cảo luận (1933) chia thành hai ngả. Một xuất phát từ Phê bình để trở thành lối phê bình chủ quan ấn tượng với Hoài Thanh và Thi nhân Việt Nam (1942). Lối kia bắt nguồn từ Cảo luận tạo nên phê bình khách quan khoa học với Vũ Ngọc Phan của Nhà văn hiện đại (1942), Trần Thanh Mai của Hàn Mặc Tử (1941), Trương Tửu của Nguyễn Du và Truyện Kiều (1942), Tâm lý và tư tưởng Nguyễn Công Trứ (1945). Sự phân chia này, dĩ nhiên, không phải là hành chính, mà là khoa học, tức sự phân giới dựa trên những yếu tố chủ đạo, nên không phải là không thể vượt biên. Bởi, mọi biên giới đều mơ hồ hơn ta tưởng, nhất là ở khoa học văn chương.

  • LTS: Marcel Reich-Ranicki, sinh năm 1920, người ở Đức được mệnh danh là "Giáo hoàng văn học", là nhà phê bình văn học đương đại quan trọng nhất của CHLB Đức. "Một lời biện hộ cho thơ" là bài thuyết trình đọc vào ngày 30.11.1980 nhân dịp ra mắt Tập 5 của "Tuyển thơ Frankfurt" trong khuôn khổ chuyên mục thơ của nhật báo "Frankfurter Allgemeine Zeitung" (FAZ) mà tác giả là chủ biên phần văn học từ 1973 đến 1988.Sông Hương xin trân trọng giới thiệu bài "Một lời biện hộ cho thơ" của ông sau đây do dịch giả Trương Hồng Quang thực hiện.