Người chăm sóc làm dịu những đớn đau

09:53 28/12/2009
NGUYỄN HỮU QUÝ         (Mấy cảm nhận khi đọc Chết như thế nào của Nguyên Tường - NXB Thuận Hóa, 2009) Tôi mượn thuật ngữ chuyên ngành y học (Chăm sóc làm dịu=Palliative Care) để đặt tít cho bài viết của mình bởi Phạm Nguyên Tường là một bác sĩ điều trị bệnh ung thư. Tuy rằng, nhiều người biết đến cái tên Phạm Nguyên Tường với tư cách là nhà thơ trẻ, Chủ tịch Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế hơn là một Phạm Nguyên Tường đang bảo vệ luận án tiến sĩ y khoa.

Bìa cuốn

Bận rộn biết bao với việc điều trị, học hành anh vẫn không buông lơi chuyện sáng tác nhờ thế đến nay đã có 3 tập thơ: Hoa cúc mùa thu (1994); Lá tháng chạp (1998); Quang gánh và những bài thơ khác (2006) và 1 tập ghi chép: Chết như thế nào (2009) trình làng. Tập văn xuôi đầu tiên này của Tường không dày dặn, chỉ có hơn trăm trang in khổ 12 x 20 gồm 12 ghi chép về công việc chữa trị chăm sóc bệnh nhân nan y và những chuyến đi trong và ngoài nước của anh. Một cách thể hiện trung thực, sống động, day dứt, đầy cảm thông chia sẻ trước những bất hạnh đớn đau của con người. Cũng chính vì thế mà tôi gọi Phạm Nguyên Tường là người chăm sóc làm dịu những đớn đau.

Những đớn đau về thể xác và cả tâm hồn của con người. Những con người cụ thể; họ là bệnh nhân, là bạn thơ, bạn đời của Tường, những người Mỹ, người Bỉ, người Singapo, những Việt Kiều anh đã gặp… Anh thủ thỉ kể về họ trong những cảm nhận sâu sắc về thân phận và ý thức san sẻ rõ ràng, không li kỳ rườm rà, không cao siêu bóng bẩy, mà van thấm thía nhân văn như thổ lộ của Tường, Cuộc đời hành nghề của tôi đã gắn với những giọt nước mắt của biết bao phận đời, phận người. Như những giọt nước mắt bằng sứ trong tác phẩm sắp đặt của Jason Lim ngày nào, đo từ giếng trời xuống, mỗi một lần lại găm buốt tâm can. Tôi thuộc về nơi ấy.

Trước hết, Tường thuộc về những người bất hạnh trong cuộc chiến cam go chống lại căn bệnh ung thư. Viết như thế này hoàn toàn không chỉ là cach nhìn của một thầy thuốc: Nếu nói, theo quan niệm của nhiều người, bệnh nhân ung thư là nỗi oan nghiệt và đọa đày, thì phần lớn bệnh nhân ung thư Việt Nam là tận cùng của sự oan nghiệt và đày đọa! Tôi dám chắc như vậy. Phần lớn họ rất nghèo, không đủ tiền để điều trị bệnh. Cũng chính vì nghèo khó cho nên họ thường phó mặc cho số phận nếu như bị chẩn đoán là ung thư. Họ lần lữa rày mai không chịu đi bệnh viện là vì còn phải ra đồng ra chợ kiếm miếng ăn hàng ngày. Đến một lúc không thể nào trì hoãn được nữa thì bệnh tình đã ở vào giai đoạn quá muộn, cơ hội chữa khỏi là rất nhỏ nhoi… Một cái chết, và hơn thế nữa, một cái chết trong đau đớn, tức tưởi và quằn quại đang chực chờ phía trước. Bi kịch cuộc đời là như thế. Nó ảm đạm và xa xót làm sao. Hơn thế nữa đó là vấn đề xã hội; người nghèo gánh chịu những bất hạnh và thiệt thòi hơn cả. Một xã hội được gọi là tot đẹp khi nó thực sự quan tâm đến người nghèo, từ công ăn việc làm, đến phòng chữa bệnh, việc học hành của bản thân và con cháu họ.

Bút ký càng phản ánh đúng, sát và nhanh nhạy cuộc sống bao nhiêu càng có giá trị bấy nhiêu. Phạm Nguyên Tường không hề né tránh thực trạng, dù nó u ám thê thảm: Hãy nhìn vào hai trung tâm điều trị ung thư lớn nhất ở hai đầu đất nước… Bệnh viện quá tải, bệnh nhân buộc phải nằm ghép hai người, thậm chí ba người trong chiếc giường bé tẹo. Những người đến sau không còn giường thì đành giăng ghế xếp nằm lay lắt ở ngoài hành lang… Và, chắc ai cũng động lòng khi đọc những câu văn rưng rưng nước mắt như thế này của Tường: Những tờ bạc lẻ, rách công khó từ những luống khoai luống cà, những chuồng gà chuồng lợn từ các tỉnh xa đổ về thành phố để đắp vào những đường mổ, những lọ hóa chất hay những lần “chạy tia”. Đó là chưa kể những tờ bạc nặng mùi mồ hôi và nước mắt ấy đôi khi phải nằm lót trong cuốn sổ khám bệnh hàng tuần của bác sĩ, hay trong túi áo blouse trắng tinh của mấy cô y tá để được “chích không đau”… Nói chung, bệnh nhân ung thư của chúng ta cùng lúc bị tàn phá mỏi mòn từ hai phía: một từ bệnh và một từ xã hội… Với bệnh nhân ung thư chết là kết cục đương nhiên nhưng chết như thế nào là điều cần tính tới.

Trong ghi chép của mình, Phạm Nguyên Tường miêu tả những cái chết của người bệnh thật thương tâm và vô cùng ám ảnh. Đó là cái chết đau đớn và không thể thở được của một đứa trẻ lên ba, đầu trọc lóc và da dẻ trắng nhợt vì vô hóa chất; cái chết trong câm lặng, đôi mat vô hồn vì khối u não ác tính oan nghiệt của một nữ sinh trường trung học Gia Hội vốn là một cô bé trắng trẻo, xinh đẹp, học giỏi và là hạt nhân của phong trào Đoàn sôi nổi… Còn đây, một bệnh nhân ung thư khác khi chet khối u ở vùng bụng dưới bùng phát, lở lói, mủ máu chảy ra hôi hám với giòi, bọ bám đầy hay một bệnh nhân ung thư lưỡi chết ngay sau khi ho ộc ra một lượng máu quá lớn do vỡ mạch. Qua Phạm Nguyên Tường, ta hiểu hơn, thương hơn những con người bất hạnh ấy khi đối mặt với cái chết. Họ có ước mong gì trước lúc ra đi? Tường viết: Nhiều bệnh nhân ung thư tâm sự với tôi, họ biết bệnh của mình, đã qua nhiều cửa ải điều trị rồi họ không còn sợ chết nữa, họ chỉ sợ chết thảm thương. Và, từ những điều trông thấy mà đau đớn lòng, bác sĩ Phạm Nguyên Tường cho rằng: Chăm sóc làm dịu là một chuyên ngành nhân văn nhất trong các chuyên ngành y. Nếu y học chưa đủ sưc giành lại bệnh nhân từ bàn tay tử thần, tại sao không tìm cách thay chiếc áo choàng đen kinh rợn của ông ta bằng những chiếc ào màu tươi tắn hơn? Một trong những mục tiêu của chuyên ngành Chăm sóc làm dịu giai đoạn cuoi bệnh ung thư là cải thiện chất lượng sống (quality of life) nhưng nếu người bệnh không thể sống tiếp thì một khái niệm khác cần được đặt ra là chất lượng chết (quality of death) với 4 tiêu chuẩn là: không đau đớn - nhanh gon - trong thanh tịnh - người thân kề bên. Điều đó lý giải tại sao những bác sĩ chân chính không bao giờ ghi vào hồ sơ của bệnh nhân tử vong chữ chết mà họ viết chữ “R.I.P” thật đơn sơ; chữ viết tắt của Rest In Peace (An nghỉ). Thiết nghĩ, không có gì ấm áp và nhân văn hơn thế.

Trong Phạm Nguyên Tường có tấm lòng hiền lương của một thầy thuốc và có cả tâm hồn đa mang của một nhà thơ. Những gì anh viết ra thật đơn sơ nhưng cũng thật cảm động. Đôi mắt của một bác sĩ, của một nhà khoa học cho anh cách miêu tả phản ánh hiện thực chính xác cụ thể và đôi mắt thi sĩ đã cho Tường cái nhìn cuộc sống đầy thương cảm bao dung. Không chỉ với bệnh nhân mà với bạn bè, vơi những người anh gặp đó đây thì cái nhìn thương cảm bao dung ấy vẫn tỏa sáng, sưởi ấm từng trang viết của anh. Mới ngẫm ra rằng với người cầm bút chữ Tâm mới đáng quý làm sao. Tâm tốt, văn mới sáng, mới thật, mới đủ sức lay động người khác. Đọc bút ký của Phạm Nguyên Tường, tôi không nghĩ anh là người tài hoa như Nguyễn Tuân, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Đỗ Chu hay gần đây là Văn Cầm Hải nhưng sao những câu chuyện của anh lại làm cho tôi xúc động và ngẫm nghĩ nhiều đến thế.

Qua những nhân vật như gã bù xù ở trạm gác cũ ở Porte de Ninove, ba cha con người Ả Rập cúi đầu ăn xin ở dưới chân cầu thang cuốn ở ga tàu điện De Brouckere ở Bỉ (Dưới vòm trời xanh thẳm); cô hầu gái (maid) Kusmiyali (Kedung Wringin đường về còn xa); người cựu binh không vận Mỹ đã từng tham chiến ở chiến trường A Lưới (Thừa Thiên Huế) Michael Paul Maurer (Lên đồi Thịt Băm, nhớ người bạn Mỹ bị dày vò); nhưng người con đất Việt đi làm ăn ở xứ người đôi khi nửa đêm sực tỉnh thấy hoang hóa trong lòng, thấy đời mình như kiếp kí sinh, váng vất giữa vô thường (Tiếng quạ kêu chiều); người mẹ Tà Ôi chỉ thích làm con châu chấu để về, vì châu chấu về nhanh mà bay đi cũng nhanh... mỗi con châu chấu là một linh hồn… (Mẹ sau núi); Phương Xích Lô nhàu nát và xộc xệch (Trò đi lui xúi quẩy)… ta thấy cuộc sống nhiều góc khuất tăm tối và mỏng manh làm sao. Nó thực sự cần sự chiếu sáng và sưởi ấm của đồng loại, đồng bào, nó cần được chia sẻ để gần nhau hơn trước những bất hạnh và rủi ro, những trầm uất và sầu muộn.

Tình cảm và ý nguyện của Tường trong tập sách này cũng không nằm ngoài hai chữ Nhân Văn. Chết như thế nào của Phạm Nguyên Tường chỉ là những câu chuyện nhỏ về con người, những bài học làm người tử tế, đơn giản như vậy thôi.

N.H.Q

(250/12-09)

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Hoàng Phủ Ngọc Tường. Sinh ngày 9 tháng 9 năm 1937. Quê ở Triệu Long, Triệu Hải, Quảng Trị. Năm 1960, tốt nghiệp khóa I, ban Việt Hán, Trường đại học Sư phạm Sài Gòn. Năm 1964, nhận bằng cử nhân triết Đại học Văn khoa Huế. Năm 1960 - 1966, dạy trường Quốc Học Huế. Từng tham gia phong trào học sinh, sinh viên và giáo chức chống Mỹ - ngụy đòi độc lập thống nhất Tổ quốc. Năm 1966 - 1975, nhà văn thoát li lên chiến khu, hoạt động ở chiến trường Trị Thiên. Sau khi nước nhà thống nhất, từng là Chủ tịch Hội Văn nghệ Quảng Trị, Tổng biên tập Tạp chí Cửa Việt.

  • ANH DŨNGLTS:  Kết hợp tin học với Hán Nôm là việc làm khó, càng khó hơn đối với Phan Anh Dũng - một người bị khuyết tật khiếm thính do tai nạn từ thuở còn bé thơ. Bằng nghị lực và trí tuệ, anh đã theo học, tốt nghiệp cử nhân vật lý lý thuyết trường Đại học Khoa học Huế và thành công trong việc nghiên cứu xây dựng hoàn chỉnh bộ Phần mềm Hán Nôm độc lập, được giải thưởng trong cuộc thi trí tuệ Việt Nam năm 2001.Sông Hương xin giới thiệu anh với tư cách là một công tác viên mới.

  • SƠN TÙNGLTS: Trong quá trình sưu tầm, tuyển chọn bài cho tập thơ Dạ thưa Xứ Huế - một công trình thơ Huế thế kỷ XX, chúng tôi nhận thấy rằng, hầu hết các nhà thơ lớn đương thời khắp cả nước đều tới Huế và đều có cảm tác thơ. Điều này, khiến chúng tôi liên tưởng đến Bác Hồ. Bác không những là Anh hùng giải phóng dân tộc, là danh nhân văn hoá thế giới mà còn là một nhà thơ lớn. Các nhà thơ lớn thường bộc lộ năng khiếu của mình rất sớm, thậm chí từ khi còn thơ ấu. Vậy, từ thời niên thiếu (Thời niên thiếu của Bác Hồ phần lớn là ở Huế) Bác Hồ có làm thơ không?Những thắc mắc của chúng tôi được nhà văn Sơn Tùng - Một chuyên gia về Bác Hồ - khẳng định là có và ông đã kể lại việc đó bằng “ngôn ngữ sự kiện” với những nhân chứng, vật chứng lịch sử đầy sức thuyết phục.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊAnh Hoài Nguyên, người bạn chiến đấu của nhà văn Thái Vũ (tức Bùi Quang Đoài) từ thời kháng chiến chống Pháp, vui vẻ gọi điện thoại cho tôi: “Thái Vũ vừa in xong TUYỂN TẬP đó!...” Nhà văn Thái Vũ từng được bạn đọc biết đến với những bộ tiểu thuyết lịch sử đồ sộ như “Cờ nghĩa Ba Đình” (2 tập - 1100 trang), bộ ba “Biến động - Giặc Chày Vôi”, “Thất thủ kinh đô Huế 1885”, “Những ngày Cần Vương” (1200 trang), “Thành Thái, người điên đầu thế kỷ” (350 trang), “Trần Hưng Đạo - Thế trận những dòng sông” (300 trang), “Tình sử Mỵ Châu” (300 trang)... Toàn những sách dày cộp, không biết ông làm “tuyển tập” bằng cách nào?

  • MINH QUANG                Trời tròn lưng bánh tét                Đất vuông lòng bánh chưng                Dân nghèo thương ngày Tết                Gói đất trời rưng rưng...

  • NGUYỄN THỊ THÁITôi không đi trong mưa gió để mưu sinh, để mà kể chuyện. Ngày ngày tôi ngồi bên chiếc máy may, may bao chiếc áo cho người. Tôi chưa hề may, mà cũng không biết cách may một chiếc Yêng như thế nào.

  • Nhà thơ Hải Bằng tên thật là Vĩnh Tôn, sinh ngày 3 tháng 2 năm 1930, quê ở thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ông mất ngày 7 tháng 7 năm 1998.

  • NGUYỄN VĂN HOACuốn sách: "Nhớ Phùng Quán" của Nhà xuất bản Trẻ, do Ngô Minh sưu tầm, tuyển chọn và biên soạn với nhiều tác giả phát hành vào quý IV năm 2003. Cuốn sách có 526 trang khổ 13x19cm. Bìa cứng, in 1000 cuốn. Rất nhiều ảnh đẹp của Nguyễn Đình Toán - nhà nhiếp ảnh chân dung nổi tiếng của Việt nam. Đơn vị liên doanh là Công ty Văn hoá Phương Nam.

  • ĐÀ LINHĐể có trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ, trước đó quân đội Nhân dân Việt Nam đã có những trận đánh để đời mở ra những khả năng to lớn về thế và lực cho chúng ta. Trong đó Trận chiến trên đường (thuộc địa) số 4 - biên giới Cao Bắc Lạng 1950 là một trận chiến như vậy.

  • HOÀNG VĂN HÂNLướt qua 30 bài thơ của Ngô Đức Tiến trong “Giọng Nghệ”, hãy dừng lại ở những bài đề tài tình bạn. Với đặc điểm nhất quán, bạn của anh luôn gắn liền với những hoài niệm, với những địa chỉ cụ thể, về một khoảng thời gian xác định. Người bạn ấy hiện lên khi anh “nghĩ về trường” “Thăm trường cũ”, hoặc là lúc nhớ quá phải “Gửi bạn Trường Dùng” “ Nhớ bạn Thanh Hoá”. Bạn của anh gắn với tên sông, tên núi: sông Bùng, sông Rộ, Lạt, Truông Dong, Đồng Tháp.

  • FAN ANHTrên thế gian này tồn tại biết bao nhiêu báu vật, hoặc những huyền thoại về báu vật, thì cũng gần như hiện hữu bấy nhiêu nỗi đau và bi kịch của con người vốn dành cả cuộc đời để kiếm tìm, bảo vệ, chiếm đoạt hay đơn giản hơn, đặt niềm tin vào những báu vật ấy. Nhẫn thạch (Syngué sabour - Pierre de patience) của Atiq Rahimi trước tiên là một báu vật trong đời sống văn học đương đại thế giới, với giải thưởng Goncourt năm 2008, sau đó là một câu chuyện về một huyền thoại báu vật của những người theo thánh Allad.

  • KIM QUYÊNSinh năm 1953 tại Thừa Thiên (Huế), tốt nghiệp Đại học Sư phạm Huế năm 1976, sau đó về dạy học ở Khánh Hoà (Nha Trang) hơn 10 năm. Từ năm 1988 đến nay, nhà thơ xứ Huế này lại lưu lạc ở thành phố Hồ Chí Minh, tiếp tục làm thơ và viết báo. Chị là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, hiện nay là biên tập viên Tạp chí Văn hoá Nghệ thuật của Sở Thông tin Văn hoá thành phố Hồ Chí Minh.

  • VÕ QUANG YẾN Tôi yêu tiếng nước tôi                Từ khi mới ra đời làm người                                                Phạm Duy

  • PHẠM NGUYÊN TƯỜNGKhao khát, đinh ninh một vẻ đẹp trường tồn giữa "cuộc sống có nhiều hư ảo", Vú Đá, phải chăng đó chính là điều mà kẻ lãng du trắng tóc Nhất Lâm muốn gửi gắm qua tập thơ mới nhất của mình? Bài thơ nhỏ, nằm nép ở bìa sau, tưởng chỉ đùa chơi nhưng thực sự mang một thông điệp sâu xa: bất kỳ một khoảnh khắc tuyệt cảm nào của đời sống cũng có thể tan biến nếu mỗi người trong chúng ta không kịp nắm bắt và gìn giữ, để rồi "mai sau mang tiếng dại khờ", không biết sống. Cũng chính từ nhận thức đó, Nhất Lâm luôn là một người đi nhiều, viết nhiều và cảm nghiệm liên tục qua từng vùng đất, từng trang viết. Câu chữ của ông, vì thế, bao giờ cũng là những chuyển động nhiệt thành nhất của đời sống và của chính bản thân ông.

  • MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHTôi nghe rằng,Rạch ròi, đa biện, phân minh, khúc chiết... là ngôn ngữ khôn ngoan của lý trí nhị nguyên.Chan hoà, đa tình, niềm nỗi... là ngôn ngữ ướt át của trái tim mẫn cảm.Cô liêu, thuỷ mặc, bàng bạc mù sương, lấp ló trăng sao... là ngôn ngữ của non xanh tiểu ẩn.Quán trọ, chân cầu, khách trạm, phong trần lịch trải... là ngôn ngữ của lãng tử giang hồ.Điềm đạm, nhân văn, trung chính... là ngôn ngữ của đạo gia, hiền sĩ.

  • MAI VĂN HOANTập I hồi ký “Âm vang thời chưa xa” của nhà thơ Xuân Hoàng ra mắt bạn đọc vào năm 1995. Đã bao năm trôi qua “Âm vang thời chưa xa” vẫn còn âm vang trong tâm hồn tôi. Với tôi, anh Xuân Hoàng là người bạn vong niên. Tôi là một trong những người được anh trao đổi, trò chuyện, đọc cho nghe những chương anh tâm đắc khi anh đang viết tập hồi ký để đời này.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ giới thiệuNhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà phê bình Hoài Thanh (1909-2009)Chúng ta từng biết cố đô “Huế Đẹp và Thơ” một thời là nơi hội tụ các văn nhân, trong đó có những tên tuổi kiệt xuất của làng “Thơ Mới” Việt Nam như Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên…; nhưng nhà phê bình Hoài Thanh lại đến với Huế trong một hoàn cảnh đặc biệt và có thể nói là rất tình cờ.

  • LÊ TRỌNG SÂM giới thiệuBà sinh ra và lớn lên ở Painpol và Saint-Malo, một đô thị cổ vùng Bretagne, miền đông bắc nước Pháp. Học trung cấp và tốt nghiệp cử nhân văn chương ở thành phố Nice, vùng xanh da trời miền nam nước Pháp. Là hội viên Hội nhà văn Pháp từ năm 1982, nay bà đã trở thành một trong số ít nhà văn Châu Âu đã tiếp thu và thâm nhập sâu sắc vào rất nhiều khía cạnh của văn hoá Việt Nam.

  • MAI VĂN HOAN giới thiệu Vĩnh Nguyên tên thật là Nguyễn Quang Vinh. Anh sinh năm 1942 (tuổi Nhâm Ngọ) ở Vĩnh Tuy, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Bố anh từng tu nghiệp ở Huế, ông vừa làm thầy trụ trì ở chùa vừa bốc thuốc chữa bệnh cho người nghèo. Thuở thiếu thời anh đã ảnh hưởng cái tính ngay thẳng và trung thực của ông cụ. Anh lại cầm tinh con ngựa nên suốt đời rong ruổi và “thẳng như ruột ngựa”.

  • LGT: Vài năm lại đây, sau độ lùi thời gian hơn 30 năm, giới nghiên cứu văn học cả nước đang xem xét, nhận thức, và đánh giá lại nền “Văn học miền Nam” (1954 - 1975) dưới chế độ cũ, như một bộ phận khăng khít của văn học Việt Nam nửa sau thế kỷ XX với các mặt hạn chế và thành tựu của nó về nghệ thuật và tính nhân bản. Văn học của một giai đoạn, một thời kỳ nếu có giá trị thẩm mỹ nhân văn nhất định sẽ tồn tại lâu hơn bối cảnh xã hội và thời đại mà nó phản ánh, gắn bó, sản sinh. Trên tinh thần đó, chúng tôi trân trọng giới thiệu bài viết vừa có tính chất hồi ức, vừa có tính chất nghiên cứu, một dạng của thể loại bút ký, hoặc tản văn về văn học của tác giả Nguyễn Đức Tùng, được gửi về từ Canada. Bài viết  dưới đây đậm chất chủ quan trong cảm nghiệm văn chương; nó phô bày cảm nghĩ, trải nghiệm, hồi ức của người viết, nhưng chính những điều đó làm nên sự thu hút của các trang viết và cả một quá khứ văn học như sống động dưới sự thể hiện của chính người trong cuộc. Những nhận định, liên hệ, so sánh, đánh giá trong bài viết này phản ánh lăng kính rất riêng của tác giả, dưới một góc nhìn tinh tế, cởi mở, mang tính đối thoại của anh. Đăng tải bài viết này chúng tôi mong muốn góp phần đa dạng hóa, đa chiều hóa các cách tiếp cận về văn học miền Nam. Rất mong nhận được các ý kiến phản hồi của bạn đọc. TCSH