Người bị truy nã (2)

08:14 09/01/2009
(tiếp theo và hết)Chuyến du ngoạn địa ngục đã để lại trong tâm trí ông Thai một ấn tượng hãi hùng. Thật khủng khiếp nếu phải chịu cực hình rồi bị đày xuống đó muôn kiếp. Phải tìm cách tự cứu mình chứ chả lẽ chịu bó tay?

Không muốn xuống địa ngục, lại chẳng lên được cõi Tây phương cực lạc, vậy chỉ còn con đường cuối cùng là tìm cách chạy tội rồi xin một “suất” đầu thai, nhưng phải là kiếp người chứ không thể làm loài vật. Tốt nhất là được đầu thai vào một gia đình giàu có, chẳng hạn một nhà tỉ phú nào đó bên Tây bên Mỹ...
Đường lối thì như vậy, nhưng thực hiện cách sao? Ở đây thân cô thế cô, không tiền bạc không phe cánh không “ô dù”, tình trạng cực kì bi đát. Giờ chỉ còn trông cậy vào phán quan Chu Miên. Hắn ta vừa nhận của ông một triệu. Đầu xuôi đuôi lọt, cứ bám Chu Miên sẽ tìm ra lối thoát...

Hàng tháng bà vợ vẫn gửi tiền cho ông vào dịp mồng một ngày rằm, nhưng chẳng được bao nhiêu, vừa đủ để đánh bạc cò con với lũ quỷ. Tuy vậy ông cũng cố tích cóp, lâu lâu dúi cho Chu Miên một món. Không nhiều, chỉ đủ duy trì quan hệ. Nhờ vậy mà khi hết sáu tháng tạm giam, phán quan lại xin lệnh gia hạn thêm một kỳ nữa. Trong lúc túng quẫn, ông bảo hai quỷ bán giúp cái xe máy, tiền thu được “cưa đôi”. Chúng hí hửng nhận lời, hôm sau dắt đến một cặp nam nữ tuổi chừng mười tám đôi mươi, nhác trông đã biết ngay là cao thủ làng đua. mặc quần thụng áo da đen, nửa mặt còn nguyên nửa mặt nát bấy xương thịt lầy nhầy, chiếc kính râm cũng chỉ còn một mắt một gọng. Nữ thì quần rin áo pun tóc nhuộm ba màu môi nâu mốt Hàn Quốc, một tay gãy lìa treo lủng lẳng, đầu gối bên trái vỡ toác lòi xương bánh chè trắng hếu, bước cà quệt kéo lê theo cái cẳng chân tím bầm. Chẳng chào chẳng hỏi, chúng lượn quanh chiếc xe một vòng. Ông Thai ngao ngán nhưng cũng cố “tiếp thị”: “Xe còn mới nguyên, chưa chạy rô đa. Các cháu trả bao nhiêu?” Nữ nhân bỉu môi cong cớn: “Bố già vô duyên! Ai mua mà trả? Xách con xế này ra đường có mà quần hùng cười cho thối mũi”. nhân khinh khỉnh: "Mác Nhật, phụ tùng Tàu. Hàng dởm! Bọn này đã tử một lần, chẳng dại tử thêm lần nữa!" Nói xong chúng cười hô hố, khoác tay nhau bỏ đi. Hai quỷ chưng hửng. Ông Thai tức nghẹn họng. Lũ mất dạy! Con nhà vô văn hóa!

Phán quan biết chuyện, khuyên: “Ngài đưa lũ quỷ ít tiền, nhờ chúng tống khứ đi đâu đó cho khuất mắt.” Ông làm theo. Hai quỷ mừng hú đưa xe ra khỏi phòng, đứa dắt đứa đẩy, chạy biến. Hôm sau đánh bạc thấy chúng có nhiều tiền, ông Thai ngờ ngợ: “Không khéo bọn này lừa mình đem xe đi tiêu thụ nơi khác...”. Chỉ nghĩ trong đầu, không dám nói ra.
Thời gian cứ đều đều trôi. Ông Thai vẫn không ngừng suy tính tìm kế thoát thân, nhưng chưa nghĩ ra cách gì tối ưu. Mọi kinh nghiệm vượt ngục ở dương gian đều không thể áp dụng được. “Có nên hỏi thẳng Chu Miên? Hắn ta lâu nay vẫn ăn tiền của mình, chắc không đến nỗi cạn tàu ráo máng...” Nghĩ vậy nhưng ông còn e ngại, vì cho tới giờ phán quan vẫn chưa hé lộ ai đã tố giác. Vẫn biết Diêm vương am tường mọi chuyện, nhưng trên kia thiếu gì đứa tham nhũng? Đài báo ngày nào chẳng đưa tin hết vụ này đến vụ khác, vụ sau to hơn vụ trước, nhưng đều xử ở dương gian chứ đâu có bắt xuống âm phủ? Biết bao nhiêu đứa tội to đùng, vậy mà lãnh mức án nhẹ hều; có đứa còn thoát tội, chỉ xử lý nội bộ chuyển công tác khác. Nghe nói sau này xuống đây những kẻ đó sẽ bị đày địa ngục, nhưng đấy là chuyện “sau này” chứ hiện giờ chúng vẫn còn sống nhăn răng, chỉ mình ông là chết. Phải chăng có tư thù tư oán gì đây?...
Ông Thai trở nên lầm lì cau có, suốt ngày chắp hai tay sau lưng đi tới đi lui, mặt nặng như chì. Hai quỷ gạ ông đánh bạc mãi không được, cho là ông đã lẩn thẩn, đành mượn bộ bài chơi tay đôi với nhau.

Ngày tháng tựa thoi đưa én liệng, thấm thoắt đã tới kì giỗ đầu. Bà vợ lại gửi cho ông tiền vàng tiền “đô” cùng đủ thứ linh tinh, hai quỷ khiêng giúp suốt buổi, để chật cả phòng giam. Ông vừa mừng vừa cáu. Giờ này trên kia hẳn vợ con cùng đám bạn bè thân hữu đang chén chú chén anh nâng lên hạ xuống... Ông còn lạ gì các đám giỗ thời nay, chẳng qua thắp vài nén hương nói quấy quá đôi câu ba lời cho phải phép, rồi túm lại với nhau ăn uống, bàn chuyện chức quyền địa vị công danh, chuyện phe phái bè cánh, chuyện đất đai nhà cửa, chuyện buôn bán kinh doanh... Ai chết cứ chết, ai ăn cứ ăn, ai làm giàu cứ làm giàu, đời là vậy! Ông Thai cảm thấy xót xa. Đã thế lại càng tức hơn khi không có cách nào nhắn bà vợ đừng gửi tiền “đô” xuống. Dạo này “đô” Mỹ “đô” Úc “đô” Hồng Công rớt giá dễ sợ...

Số tiền vàng vợ gửi đợt này ông quyết định biếu hết cho phán quan, coi như đánh canh bạc năm ăn năm thua. Dĩ nhiên sắp tới sẽ là những ngày túng quẫn, nhưng vẫn còn hàng hóa, nhờ hai quỷ đưa ra chợ trời chắc cũng đủ chi tiêu lặt vặt.
Phán quan nhận tiền, áy náy:
- Ngài cho nhiều quá!
- Chỉ chút quà mọn, có đáng là bao! Ngài không từ chối là tôi mãn nguyện lắm rồi! - Ông Thai đưa đẩy.
Phán quan sốt ruột, nhìn ông chòng chọc:
- Thôi thế này! Ta lật bài ngửa! Hẳn ngài muốn tôi giúp việc gì đấy phỏng?
Được lời như cởi tấm lòng, ông Thai mạnh dạn:
- Thú thực, tôi muốn xin một “suất” đầu thai, ngặt nỗi ở đây không quen biết ai, thôi thì trăm sự trông cậy vào ngài. Nếu được trở lại kiếp người, tôi nguyện suốt đời tri ân công đức ngài, tháng ngày đều đều thắp hương cúng kiếng hậu tạ, quyết không sao nhãng!
Phán quan trầm ngâm, hồi lâu sau mới nói:
- Chẳng phải tôi không muốn giúp ngài, nhưng việc này thực khó quá...
Ông Thai vội nói:
- Vâng! Tôi cũng biết việc quả không dễ. Có điều... ngài đang thụ lý vụ án, chỉ xin châm chước hồ sơ, giảm tội thêm công...
Phán quan cười nhạt:
- Ngài nói dễ nghe nhỉ! Máy tính nối mạng, hồ sơ lưu trong máy chủ của điện Diêm La... Nhưng thôi, chuyện đó tính sau. Cái khó nhất là làm sao để người kiện ngài chịu viết đơn bãi nại.
Ông Thai giật nẩy, tim đập thình thịch:
- Thế ra...người đó hiện ở đây?
- Phải! Nguyên đơn hiện làm việc trong điện Diêm La. Bởi thế khi y khởi kiện, ngài liền bị bắt xuống đây. Nhưng nhờ vậy mà ngài còn có cơ may!
“Biết mà! Mình đã nghi ngay từ đầu! - Ông Thai toát mồ hôi hột - Nhưng sao hắn ta lại nói là có cơ may?” Ông ấp úng:
- Tôi...không hiểu...
Phán quan tủm tỉm:
- Nếu nguyên đơn không còn ở đây, thì làm sao tôi giúp ngài đàm phán việc bãi nại được?
Ông Thai chợt hiểu ra, mừng quýnh:
- Ngài thực cao minh! Bội phục! Bội phục! Tôi chỉ là kẻ tài sơ trí thiển, mong được ngài chỉ giáo. - Nói xong sụp xuống lạy phán quan ba lạy.
Phán quan Chu Miên đỡ ông dậy, trên môi lại thoáng nụ cười khó hiểu:
- Tôi thực lòng giúp cốt làm việc thiện, ngài hà tất phải đa lễ. Nhưng chẳng hay ngài đã biết ai kiện và kiện về việc gì chưa?
Ông Thai ngẩn mặt:
- Thú thực tôi không nghĩ ra...
Phán quan nhíu mày trách móc:
- Ngài mù tịt về đối thủ, làm sao thương lượng được?

“Hắn ta thật vô lý...”, ông Thai ấm ức nhưng không dám cãi, đành cúi mặt im lặng. Phán quan liếc nhìn hai con quỷ đang chơi bài ngoài cửa, đoạn ghé sát tai ông Thai nhỏ giọng thì thầm...
Thì ra người kiện là một vị vua từng ngự trên ngai vàng được mấy niên trong thế kỷ mười tám, không may lâm bạo bệnh thác xuống âm phủ. Thấy người này tư chất thông minh đĩnh ngộ, có trình độ có năng lực, Diêm vương đem lòng yêu mến nên giữ lại làm trợ lý. Lý do khởi kiện là một chuyện còn mới toanh mà ông Thai là người phải chịu trách nhiệm chính: việc trùng tu khu lăng mộ (vừa lên hạng Di tích văn hoá) của vị vua ấy! Tay giám đốc Công ty trách nhiệm hữu hạn Hoa Hồng từng nhiều năm phối hợp “làm ăn” với ông, lâu ngày trở thành bạn vong niên chí cốt, lần này hắn lại chi khoản “lót tay” đậm nhất, đương nhiên thắng thầu. Công trình hoàn thành đúng tiến độ, xem ra không có sai sót gì. Ông cũng chỉ cần có thế chứ hơi đâu mà để ý đến tiểu tiết. Không ngờ việc khảo cứu khảo sát thiết kế làm qua loa đại khái, chẳng chú ý gì đến kiến trúc nguyên thủy cũng như thuật phong thủy, lại thêm “thằng” Hoa Hồng hám lợi làm ẩu, nên phần lớn khu lăng mộ bị tái tạo sai lệch. Việc này báo chí có làm ồn lên một dạo, sau cũng như nước đổ đầu vịt...
Phán quan vẫn thì thào bên tai ông:
- ... Cái hồ sen trong khu lăng mộ lâu năm bị vùi lấp, ngài cho tái tạo sai vị trí, nghiêm trọng nhất là đào trúng khu mộ vua, lấy đất đó bồi đắp những nơi bị sụt lở, giờ di cốt vương vãi khắp nơi...

Ông Thai nghe vậy thì tựa hồ như bị sét đánh, đầu óc choáng váng mắt tối sầm, gục xuống bất tỉnh nhân sự. Phán quan Chu Miên hoảng hồn, vội bảo hai quỷ lấy nước đái vã vào mặt người bệnh. Nước đái quỷ chính hiệu tốt hơn amôniắc công nghiệp nên chỉ lát sau ông Thai tỉnh lại, mở mắt lờ đờ mấp máy môi ý chừng định nói gì đó. Phán quan vội xua hai quỷ ra ngoài, rồi nói nhỏ: “Ngài cứ thư tâm nghỉ ngơi, mọi việc tôi sẽ hết lòng lo liệu. Nhưng ngài nhớ giữ kín miệng, chỉ sơ sẩy một chút thôi là cả tôi cũng phải khăn gói xuống địa ngục đấy!” Nói xong vội vã ra về. Ra khỏi cửa, Chu Miên thở phào: “Hú vía! Suýt nữa thì hỏng bét mọi việc! Cái ngón chạy là ở cõi dương truyền xuống, mà sao thằng cha này vụng thế không biết...”

Hai ngày sau phán quan lại tới, vẻ mặt khó đăm đăm như đang suy nghĩ điều gì lung lắm. Ông Thai thấy vậy không dám hỏi, chỉ nem nép chờ đợi. Hồi lâu sau phán quan lên tiếng:
- Tôi đã gặp nguyên đơn... - Ông Thai hồi hộp nhìn phán quan không chớp mắt -. ..Y đồng ý bãi nại với điều kiện... Nhưng thôi, - phán quan thở dài sườn sượt - nói ra chỉ làm khó thêm cho ngài...
- Ấy chớ! - Ông Thai hốt hoảng - Xin ngài cứ nói, khó mấy tôi cũng cố...
Phán quan lắc đầu vẻ không tin:
- Sợ ngài không đủ sức. Kể ra y cũng là người rộng lượng, nói chuyện lỡ rồi thôi cho qua, chỉ đòi ngài phải nộp số tiền bồi hoàn danh dự là... - Phán quan nêu ra một số tiền khổng lồ. Ông Thai thuỗn mặt không nói nên lời. Phán quan vẫn thủ thỉ - Ấy là tôi đã cố hết sức năn nỉ. Nói thực, mức bồi hoàn như vậy chỉ là tượng trưng chứ hậu quả thì tiền nào bù đắp nổi! Với tội trạng của ngài, giá ấy là “mềm” lắm rồi! Trên các ngài chả nói “còn người còn của” là gì! Nếu bị đày xuống địa ngục, mọi tiền bạc của cải đều vô nghĩa...
Ông Thai nghe cũng có lý, lại thấy phán quan tận tình giúp đỡ thì như được an ủi, bèn ngẫm nghĩ một lúc rồi ghé sát tai Phán quan nói nhỏ:
- Trên kia tôi còn số vàng bấy lâu vẫn cất kỹ chưa ai biết. Nếu ngài có cách gì...
Phán quan giãy nảy:
- Ngài nói thế nào ấy chứ! Việc gửi tiền hàng xuống âm phủ tuy dễ mà khó, người gửi người nhận đều phải danh chính ngôn thuận công khai minh bạch, đủ lễ tục mới “hỏa hóa” được.
- Thì vẫn biết vậy! Có điều... - Ông Thai nói giọng nghiêm túc - Ngài thông thạo cõi âm, xem có đường dây chuyển lậu hay “rửa tiền” nào đó xin chỉ giúp, tôi sẽ không quên ơn...
Lúc này cả đôi bên đều thực sự “lật ngửa bài” nên việc thỏa thuận cũng chóng vánh.
Ngày hôm sau phán quan dẫn tới một gã đàn ông (cũng không rõ người hay quỷ) ăn mặc sang trọng, từ comlê cà vạt kính râm giày mũ cho đến chiếc cặp xách tay có khóa số đều một màu đen tuyền, y hệt những nhân vật “xã hội đen” trong phim Hôlyút, chỉ không rõ có đeo súng ngắn trong nách hay không? Nhìn khuôn mặt đầy đặn trắng trẻo nhưng trơ trơ không chút biểu cảm, ông Thai biết gã đeo mặt nạ để ngụy trang. Phán quan ngắn gọn: “Tôi chỉ vì tình nghĩa đôi bên, mọi sự xin ba không: không nghe, không thấy, không biết!” Nói xong bước ra ngoài sân trò chuyện với hai quỷ.
Ông Thai lịch sự chắp tay thi lễ:
- Xin được thỉnh vấn cao danh quý tánh...
- Khỏi cần! - nhân hắc y lạnh lùng ngắt lời - Chúng ta là đối tác, yêu cầu của đôi bên đều đã rõ, không nên dài dòng ngôn từ rắc rối văn tự. Ngài đưa địa chỉ vẽ sơ đồ, chúng tôi hành sự. “Tiền trao cháo múc” sau một ngày một đêm. Ăn chia bốn-sáu. Ô kê?
- Ai bốn ai sáu?
- Ngài bốn!
“Không được! - Ông Thai kêu lên - Sao lại...”, chưa hết câu đã bị cắt ngang:
- Chuyển theo đường chính thức cước phí năm mươi phần trăm, đằng này chuyển lậu! Ngài tính sao? “Bốn-sáu” là giá ưu đãi. Ngài yên tâm, không ơn nghĩa gì đâu. Chẳng qua chúng tôi nể mặt phán quan Chu Miên để còn đường làm ăn lâu dài.
Ông Thai suy nghĩ rồi thừa nhận:
- Ngài có lý! Nhưng lấy gì làm tin?
nhân hắc y cười khẩy:
- Ngài đòi thế chấp chắc? Đã làm ăn phải trọng chữ “tín”, nếu không, ngài vời chúng tôi tới làm gì?
Ông Thai không chịu lép:
- Tôi không biết ngài là ai, ở đâu, cũng chưa từng kiến diện. Nói vô phép, nếu các ngài “một đi không trở lại”, tôi biết kêu ai? Với ngài là công việc làm ăn, còn đối với tôi là sinh mạng..., à quên, còn trên cả sinh mạng! Vụ này các ngài nắm dao đằng chuôi, tôi đâu dám tráo trở?
nhân hắc y quắc mắt:
- Ngài nói thế khác nào coi chúng tôi là kẻ tráo trở?
- Ấy chết! Ngài là bậc cao minh, kiến thức uyên thâm uyên bác am tường nhân tình thế thái cả hai cõi âm dương, tôi đâu dám mạo phạm! Chẳng qua tình cảnh tôi... - Ông Thai nghẹn giọng, nước mắt rơm rớm.
Bọn găngxtơ âm phủ tuy đều là những cao thủ được lựa chọn trong đám âm binh, nhưng cũng chỉ là những kẻ võ biền thô lỗ ít chữ, bởi thế gã này khi được “đối tác” tán tụng là bậc “uyên thâm uyên bác” thì sướng mê tơi, khoái chí hạ giọng ôn tồn:
- Vậy ý ngài thế nào?

Ông Thai đắn đo. Rửa tiền ở cõi nhân gian hiện giờ là chuyện thường, chẳng qua chuyển số tiền bất hợp pháp từ nơi này qua nơi khác và biến thành tiền hợp pháp. Còn chuyển từ cõi dương xuống cõi âm, chẳng biết chúng làm cách sao? Nhưng chúng đã nói thế, chắc sẽ làm được. Từ hôm xuống đây ông từng thấy bao chuyện lạ, giờ nếu có thêm một chuyện lạ nữa thì cũng... chẳng có gì lạ! Nghĩ vậy nhưng ông vẫn bán tín bán nghi, lỡ chúng ẵm trọn gói rồi chuồn mất tăm, hóa ra xôi hỏng bỏng không? Phải thử cho chắc ăn. Số vàng trên kia ông giấu làm nhiều chỗ, trước mắt cứ chỉ cho chúng một nơi... Tính toán đâu đấy xong xuôi, ông thở ra một tiếng, cất giọng ảo não: “Thôi thì mọi sự trông cậy vào ngài...”
Quả nhiên ngày hôm sau nam nhân hắc y có mặt đúng hẹn, tay xách chiếc xamxônai nặng lệch cả vai. Phán quan dụ khéo hai quỷ đi nơi khác để đôi bên chia chác. Mọi việc xem ra êm đẹp, ông Thai bèn yêu cầu làm tiếp. nhân hắc y bực tức:
- Té ra ngài thử thách chúng tôi?
- Xin ngài bớt giận! - Ông Thai nhũn nhặn - Qua vụ này tôi càng thêm vị nể ngài mà thôi! Giờ xin cứ coi như chúng ta ký tiếp một hợp đồng khác. Xong việc, tôi sẽ không quên ơn ngài...
“Đối tác” nghe lời nói khéo thì mát dạ, lại thấy vụ này còn ngon ăn hơn vụ trước, nên cũng dễ dàng chấp thuận...

Lại nói về chuyện ở cõi dương. Từ ngày bố mất, kỹ sư Hoàng tâm thần bất định, ngày đêm bồn chồn bứt rứt không yên. Hoàng biết bố mình tích trữ vàng, nhưng không rõ cất giấu ở đâu. Tất cả mọi sổ sách giấy tờ ghi chép của ông Thai để lại đều được Hoàng tra xét kỹ lưỡng, nhưng chẳng phát hiện ra một dấu tích nào. Bà mẹ bảo: “Bố mày vốn kỹ tính, lúc sống chả tin ai bao giờ. Bởi vậy mẹ đoán bố chỉ giấu đâu đó trong khu nhà trên ấy. Cố mà tìm con ạ, nhiều lắm đấy! Mà nhớ đừng có hé môi với ai, kể cả vợ mày...”
Suốt hơn năm trời Hoàng đào bới hết nơi này đến nơi khác, mua cả máy dò mìn về rà tìm khắp vườn, lại đục gõ thăm dò mọi chỗ tường nhà, rồi lấy cớ thay gạch lát nền để lật nền nhà lên..., nhưng vẫn không khám phá ra nơi giấu vàng. Ngày đêm vắt óc suy nghĩ, Hoàng kém ăn mất ngủ, mặt mũi bơ phờ hốc hác, bỏ bê cả việc cơ quan. Vợ Hoàng thấy vậy thì lo lắm! Thị mời bác sĩ tới nhà khám bệnh, lại bắt chồng đi làm đủ mọi thứ xét nghiệm, kể cả xét nghiệm HIV. Nhưng tất cả các bác sĩ Tây, Đông y cùng những thứ máy móc hiện đại đều chịu bó tay, không tìm ra bệnh. Vợ Hoàng đành “bái"” đến thầy cúng, hễ nghe thầy nào “cao tay ấn” là mời cho bằng được, tốn kém không biết bao nhiêu mà kể. Vậy mà bệnh tình của Hoàng không hề thuyên giảm, người cứ gầy rộc đi, chẳng mấy chốc chỉ còn da bọc xương...

Một đêm như mọi đêm, Hoàng lại mất ngủ. Đang nằm vắt tay lên trán, anh ta bỗng nhớ ra còn một nơi mình chưa “sờ” tới: hầm cầu! “Ơ-kê-ra”, Hoàng bật dậy kêu lên mừng rỡ.
Sáng hôm sau Hoàng bịt kín ống thông hơi hầm cầu, đến trưa thì trong nhà nồng nặc xú khí. Anh ta bảo hầm cầu bị tắc, giục vợ đưa con sang bên ngoại mấy hôm, rồi thuê xe Công ty vệ sinh về hút, đích thân đứng trông coi. Khi công nhân ra về, Hoàng đeo mặt nạ phòng độc chui xuống... Kết cục mấy gian hầm cầu bị đục tứ tung, nhưng chẳng thấy ở đâu lóe ánh hoàng kim.
Đêm đó nằm một mình trong ngôi nhà vắng lọt thỏm giữa khu vườn mênh mông, Hoàng chán chường trằn trọc mãi, đến lúc mệt quá nhắm mắt lơ mơ, chợt thoáng nghe tiếng động lạ ngoài vườn. Anh ta vùng dậy bật đèn, nhưng chẳng nhìn thấy gì. Tắt đèn nằm một lúc, lại nghe những âm thanh rậm rịch mơ hồ, rồi tiếng hai con bẹc giê rít ư ử như đang sợ hãi điều gì...
Sáng dậy người mệt đừ, Hoàng ra ngoài dạo quanh vuờn hít thở khí trời. Lúc đi qua dưới một gốc hoàng mai, chân Hoàng bỗng sụp xuống đất lút đến tận đùi. Lạ quá! Ở đây trước tới giờ đâu có cái hố nào, với lại trên mặt đất cỏ vẫn mọc xanh đều? Hoàng rút chân lên thấy đất ở đó vụn tơi như cát, bèn lấy xẻng ra đào. Lúc đào xuống chừng mét rưỡi thì tìm thấy mấy đoạn săm ô tô cùng một chiếc két sắt loại két đạn đại liên của Mỹ, đã mở nắp. Trong két rỗng không, màu sơn còn mới nguyên chưa bị rỉ. Hoàng xách két vào nhà lấy kính lúp soi kỹ, phát hiện ra những vụn vàng li ti như hạt bụi. Bộ óc kỹ sư của Hoàng hoạt động hết công suất. Rõ ràng chiếc két này đựng vàng, và vàng đã bị kẻ nào đó lấy mất. Chôn ở độ sâu ấy lại được bọc kín trong mấy lớp cao su nên máy dò mìn không phát hiện ra. Vàng mới bị lấy tối qua, còn ai lấy và lấy bằng cách nào thì chưa cần tra xét vì không đủ thông tin... Chả nhẽ chỉ có từng ấy? Liệu còn nơi nào nữa không? Vàng chôn dưới gốc mai...

Trong vườn, ông Thai trồng mười tám cây hoàng mai, đều là những gốc mai cổ thụ dáng thế tuyệt đẹp sưu tầm ở nhiều nơi, mua với giá rất đắt, trồng rất công phu. Mỗi cây từ lúc bứng đến lúc đem về trồng phải trải qua nhiều công đoạn trong thời gian ba năm. Mười tám cây mai trồng thành hình bán nguyệt, tâm là đỉnh hòn giả sơn trước sân... Rất nhanh, trong đầu Hoàng hình dung mười tám đường bán kính. Cái két đạn vừa phát hiện nằm trên đường bán kính đầu tiên bên phải, cách gốc cây một mét. Vậy mười bảy đường còn lại... Bí mật đã được giải mã!
Khi được thúc đẩy bởi những động cơ đặc biệt, sức lực con người trở nên phi thường. Hoàng đo đạc tính toán rồi đào mười bảy cái hố, xách lên mười bảy chiếc két đạn đựng đầy vàng. Đem những két vàng vào giấu dưới hầm cầu, lùa đất lấp hố, trồng lại cỏ và xóa hết mọi dấu vết... Chỉ trong một ngày, Hoàng hoàn thành khối lượng công việc mà bình thường người khỏe mạnh phải làm mất ba ngày. Đêm đến anh ta đổ bê tông hàn kín miệng hầm cầu, lát lại gạch nền như cũ, sáng hôm sau gọi thợ xây hầm cầu khác.

Mọi việc xong xuôi thì sức cùng lực kiệt. Đêm đó Hoàng lăn ra ngủ một giấc thật say sưa, say đến nỗi không bao giờ tỉnh dậy nữa. Sáng ra vợ Hoàng thấy thân thể chồng đã cứng đơ, trên đôi môi khô xác còn đọng lại nụ cười mãn nguyện...
Hoàng lìa hồn khỏi xác xuống cõi âm, tới Quỷ Môn Quan thấy dán tờ lệnh truy nã có ảnh, nhìn kỹ té ra người bị truy nã là bố mình. Đi đến
đâu cũng bị kiểm tra gắt gao. Lũ quỷ cầm ảnh ông Thai chạy nhắng khắp nơi, gặp ai cũng giữ lại so dạng...
Thì ra đêm đó đám “xã hội đen” âm phủ lên lấy vàng theo sơ đồ chỉ dẫn, thấy mọi nơi đều trống không. Cho là bị chơi khăm, chúng nổi giận đùng đùng, lập tức quay trở về. Hai con quỷ canh cửa bị đập vỡ sọ chết tươi. Bọn âm binh túm tay túm cẳng ông Thai xách chạy như bay, thoáng chốc đến bên một dòng chảy màu vàng cam nóng dễ đến hàng ngàn độ cuồn cuộn sôi sục chói lòa. Ông Thai chưa kịp nghĩ ra đấy là nham thạch nóng chảy trong lòng quả đất hay lửa luyện ngục, thì đã bị quẳng “vèo” xuống đó, tan biến trong chớp mắt. Sáng ra thấy đương phạm biến mất, Diêm vương liền phát lệnh truy nã. Khắp chốn âm ty đến chín tầng địa ngục đều bị lục lọi không sót một ngóc ngách, nhưng chẳng phát hiện dấu vết nào của kẻ bị truy nã. Một trường hợp hi hữu chưa từng xẩy ra.
Phán quan Chu Miên sau vụ đó có bị kiểm điểm qua loa, hiện vẫn công tác ở chỗ cũ. Ai có việc cần liên hệ cứ gửi “meo” cho ông ta, nhưng phải xuống dưới ấy mới gửi được..
P.V.L.

(nguồn: TCSH số 213 - 11 - 2006)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TRÚC PHƯƠNGDừng lại nghỉ chân, chị Dần tựa lưng vào gốc cây cơm nguội râm bóng bên con đường ngoằn ngoèo dẫn lên dốc Lưng Mây. Mấy cô gái Stiêng quảy gùi đi ngược ra phố trấn chốc chốc gởi lại nụ cười tự nhiên như hoa cỏ cho người phụ nữ miền xuôi đi thăm người nhà trong trại.

  • LÊ GIA NINHMột danh nhân nào đó đã nói rằng: "Người đàn bà có hai lần dễ thương. Một lần trên giường cưới và một lần trên giường chết". Riêng tôi, tôi thấy mỗi tháng người đàn bà có thêm một lần dễ thương nữa. Đó là kỳ nhận lương của chồng.

  • QUỐC THÀNH Năm ấy lên cao nguyên thăm anh bạn, biết tôi lần đầu đến anh dẫn ra trung tâm xã coi cho biết, cũng là lúc dân đi rẫy về. Ngược chiều chúng tôi là một ông già, mắt nhìn xuống miệng cứ lẩm bẩm: "Muộn rồi, Muộn rồi". Tôi nghĩ ông vội đi đâu đó, chắc nóng lòng lắm.

  • ĐÀO DUY HIỆPNgày xưa có một chàng trai rất lịch sự. Anh thường có nhiều khách đến nhà chơi.

  • TRẦN THỊ TRƯỜNGCái tin đám ma ông S chỉ có chiếc quan tài rỗng dù dấu kín đến mấy cũng cứ lan đi. Mấy "nhà báo trẻ" cứ nhớn nha nhớn nhác muốn gặp thân nhân phỏng vấn, ghi hình nhưng nhìn thấy cái vẻ lãnh đạm của H. bác sĩ quân y, con trai ông, liền co cả lại.

  • NGUYỄN HỮU THÔNGChao ơi? Xin chào Thầy, lâu ngày ghê.Tôi lúng túng một hồi mới nhận ra cô Sen. Trước mắt tôi bây giờ là một thiếu phụ với nụ cười tươi, rạng rỡ, nhưng vẫn không làm phai đi trên khuôn mặt gầy những vết hằn khốn khó.

  • ĐOÀN LÊ               Tặng anh tôi Anh làm khoa học, tôi là diễn viên nhà hát. Riêng điều đó đã không hợp nhau. Nhưng tuổi trẻ không chịu nghĩ chín chắn, chúng tôi cứ yêu nhau bất chấp mọi giông bão ở cả hai phía gia đình.

  • NGUYỄN NGỌC LỢITối đó bản Phiệt có buổi liên hoan văn nghệ. Cơm chiều xong Tản đưa tôi vào đó chơi. Chúng tôi đang chuẩn bị đi thì một cô đang dẹp đám cuốc xẻng trong góc lán nói vọng ra. Anh Tản mà đưa anh ấy đi thì có mà... Anh ấy đẹp trai, gái bản theo hết, mất phần đấy... Tản cười, cho theo bớt chứ một mình tôi... mệt lắm.

  • LÊ NGUYÊN NGỮTrong bối cảnh rạt rào gió bấc và nắng trải vàng như mật bên ngoài báo hiệu Tết sắp vê, con ngựa cũng đứng dạng bốn chân như lắng nghe câu chuyện đầy hoài niệm mà Tư Gồng bắt đầu kể tôi nghe. Giản dị vì đây là câu chuyện về chính nó, Tư Gồng trước kia đã lần khân hẹn khất với tôi chờ đến Tết Con Ngựa. Mà lúc này thì đã là cuối tháng chạp rồi.

  • NGUYỄN QUANG LẬPChiều ba mươi tết, Quỳ đạp xích lô ra ga, tính đón khách chuyến tàu vét rồi gửi xích lô, bắt xe đò về quê. Vừa vào sân ga, tàu chưa về đã có khách gọi, may thế. Khách là một trung niên mặt rỗ, quần bò áo thun, kính đen gọng vàng.

  • ĐỖ KIM CUÔNG1... Cho đến lúc sực tỉnh, tôi mới nhận ra con đường ra cánh đồng tôm và những vườn dừa dưới chân núi Đồng Bò.

  • HỒNG NHU Xóm phố nằm trên một khu đất trước đây là một dẫy đồi nghe nói vốn là nơi mồ mả dày đặc, phần lớn là mồ vô chủ không biết từ bao đời nay; và cũng chẳng biết nơi nào có nơi nào không, bởi vì gần như tất cả mồ mả ở đó đều đã bị thời gian mưa gió bào mòn, chẳng còn nấm ngôi gì cả.

  • TRẦN HẠ THÁP1*Gã nằm xuống thoải mái. Cảm giác mát lạnh của ghế đá còn rịn hơi sương buổi sớm thu giúp gã chợp mắt ngay. Công viên thành phố không chỉ là bạn đời của những ai không nhà, các tên chích choác, kẻ sống ngoài vòng luật pháp... Đây cũng là nơi khá thân quen đối với người như gã. Ít ra đã hơn bốn tháng qua, từ khi gã rời một khách sạn năm sao trong thành phố.

  • THÁI KIM LAN"Làm sao biết từng nỗi đời riêngĐể yêu thương yêu cho nồng nàn”                              Trịnh Công Sơn

  • THÁI KIM LAN(tiếp theo)

  • NGUYỄN ĐẶNG MỪNGLGT: Cuộc sống cứ lao về phía trước, song những tâm hồn đa cảm thì lại hay ngoảnh nhìn về phía sau. Nước nhảy lên bờ là ánh nhìn về những ngày đã qua giữa một vùng quê bình yên của “đêm trước đổi mới”. Một bức tranh quê sống động, dung dị song ngổn ngang những cảnh đời, những cảnh tình mà chúng ta không được phép quên, bởi tư duy đổi mới của đất nước hãy còn tiếp diễn...

  • VĨNH NGUYÊNNgô - bạn tôi rủ tôi về làng Chẻ.Đến thành phố H.H., tôi mượn chiếc xe máy của một người quen. Tôi chở Ngô về làng An Hải Trung.

  • I. Nàng là nhân vật chính của vở kịch. Vở kịch đang diễn ra. Những chủ đề về tình yêu và hôn nhân, về ước mơ và sự thật, về hoài vọng và định mệnh, về sinh ly và tử biệt, v.v và v.v... đan chéo và quyện chặt vào nhau, tạo nên một trường nghĩa lơ mơ lan man đầy ảo dị mà qua đó, những nhân vật còn lại cứ tông tốc xoay xỏa quanh một nhân vật trung tâm đang chơi trò mê hoặc: nhân vật chính.

  • Đó là lần thứ mười Malio quay về góc phố ấy. Phố hẹp, những căn nhà mặt tiền nhấp nhô, khách sạn lấp lánh đèn chen cửa hàng tơ lụa, phòng tranh sơn mài phương Đông sát với những quán cà phê nho nhỏ bài trí kiểu Tây phương...

  • Năm 1966 thầy Phan Linh dạy Toán lớp 7A tại trường cấp II xã Phúc Giang. Đó là năm chiến tranh phá hoại rất ác liệt. Máy bay Mỹ cứ nhằm những tụ điểm đông người thả bom. Học sinh đến trường phải đội mũ rơm. Để tránh bom đạn trường Phúc Giang phải sơ tán về các làng, các xóm học tạm. Lớp 7A của Phan Linh sơ tán về làng Mai.