Trong nền nghệ thuật Việt Nam, nghệ thuật thời Mạc (1527 - 1592) chiếm một vị thế rất riêng, có phong cách khác hẳn với tính nhịp điệu truyền thống của sáng tạo Việt Nam trước và sau đó.
Tượng Quan âm chùa Bối Khê (Thanh Oai, Hà Tây, Hà Nội), TK 16, điêu khắc gỗ phủ sơn. Nguồn ảnh tư liệu: sách Điêu khắc cổ VN, ảnh gốc: Phan Cẩm Thượng.
![]() |
![]() |
Nếu nhìn thoáng qua, cách thức tạc tượng thời Mạc rất thô phác, từng phần được quy vào khối riêng biệt và lắp ráp thành pho tượng, như Quan âm chùa Hạ, chia rõ thành các phần: đầu, mình, chân, bệ tòa sen, bệ đỡ hình hộp, hai pho tượng nhỏ Kim đồng, Ngọc nữ gắn rời, khối 42 tay chia đều cho hai bên thân cũng gắn theo trục thân. Sự chuyển khối rất đột ngột, các đường cong cơ thể không được chú trọng, mà các phần khối dường như được đẽo vuông vức có tính hình học cao, lắp ghép vào nhau.
Cái đặc điểm thẩm mỹ hình học này phổ biến trong chạm khắc trang trí đình làng thời Mạc, tượng chân dung thờ vua, hoàng hậu và các bà chúa, các bệ tượng Phật, các chân đèn thờ bằng gốm… tất cả được quy khối, có thể tháo lắp thành từng phần riêng biệt. Phương pháp này về sau ảnh hưởng đến toàn bộ điêu khắc gỗ và đất phủ sơn ở Việt Nam, theo cách làm từng phần rời và lắp ráp, tuy nhiên xu hướng khối hình học chỉ thịnh hành trong thời Mạc mà thôi. Thời Lý và Trần, nghệ thuật luôn ở các trung tâm lớn, phong cách nghệ thuật mang tính phổ quát, tất cả di tích trong nước thống nhất một cách thức sáng tác và thẩm mỹ, không có phong cách địa phương. Thời nhà Mạc, làng xã đã hưng thịnh, nghệ thuật không còn bị độc quyền bởi Phật giáo nhà nước như thời Lý Trần, mà phụ thuộc vào yêu cầu tín ngưỡng cũng như khả năng kinh tế của từng làng. Phong cách địa phương xuất hiện, mỗi nơi, mỗi chùa một cách thức, duy chỉ có thẩm mỹ hình học là mang tính phổ quát, cho thấy sự giản đơn, súc tích gắn liền và sinh ra từ cảm thức của người nông dân. Ngay cả những chân dung vua nhà Mạc và hoàng hậu chùa Trà Phương cũng không nằm ngoài phong cách này, chúng cho thấy triều đình nhà Mạc xuất thân hoàn toàn từ nông dân, ưa chuộng ăn mặc ở kiểu nông dân dù họ đã làm vua chúa.
Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Đỗ Cung, khi nghiên cứu chạm khắc trang trí đình làng Việt Nam, đặc biệt là đình Tây Đằng, ông nhận thấy có ba kỹ thuật chạm khắc phổ biến: chạm nông, chạm bong và chạm loọng. Ông và nhiều nhà nghiên cứu cho rằng phần nào ba kỹ thuật này tương ứng với ba thế kỷ phát triển của đình làng từ thế kỷ 16, 17, 18. Đình Tây Đằng và chùa Cói có những bức chạm nông - chạm khắc trên mặt phẳng tấm gỗ, với độ cao của phù điêu vừa phải, không xuyên thủng hay có lớp bên trong. Tuy nhiên chúng tôi thấy chạm khắc trang trí kiến trúc phụ thuộc vào những thành phần chịu lực hay không, ở nơi chịu lực đỡ nhiều thì chỉ có thể chạm nông, ở nơi ít hoặc không chịu lực thì mới có thể chạm bong và chạm loọng. Thế kỷ 17, đỉnh cao của điêu khắc và kiến trúc đình làng, kỹ thuật chạm bong nhiều lớp rất phổ biến, tất nhiên phát triển từ cách thức chạm khắc đơn giản thời Mạc.
Mặc dù khái niệm design, thẩm mỹ công nghiệp mới có từ những năm 1960 trở lại đây, nhưng khoa thiết kế của con người có từ thời cổ xưa, gắn liền với chế tác đồ dùng và đồ thờ. Những triều đại phong kiến có xu hướng định thể chế văn hóa và vĩnh cửu hóa đều có ý thức sâu sắc đối với những công trình để đời. Đền đài, cung thất và đồ dùng của họ được thiết kế cẩn thận sao cho mang một phong cách triều đại riêng biệt, vừa gắn với quá khứ truyền thống, vừa đưa ra kiểu thức mới. Con rồng yên ngựa (hình con rồng có lưng rộng và võng như yên ngựa) thời Mạc là một cách thức biểu tượng của triều đại xuất thân từ nông dân này. Có thể nói khoa tạo dáng thời Mạc rất thành công trong việc tạo ấn tượng thị giác, nó kế thừa tính thô mộc, mạnh mẽ của nghệ thuật thời Trần, sự giản dị và dân gian thời Lê Sơ, để định ra một kiểu thức riêng cho mình và triều đại phong kiến nhà Mạc.
Tất nhiên tính thô phác và thẩm mỹ công nghiệp là hoàn toàn khác nhau. Con người ngày nay không tài nào thô phác như con người ngày xưa. Thế kỷ 16 kém thô phác hơn thế kỷ 15, thế kỷ 15 kém thô phác hơn thế kỷ 14, cứ thế càng tiến tới hiện đại, sự tinh khéo càng tăng lên, nhưng cái bản chất chân thật càng phai nhạt và xa hơn với bản chất nhân văn của con người. Nên có nhà lịch sử, mà tôi không nhớ được tên, đã nói: Càng phát triển con người càng khó khăn hơn trong việc đục thủng những tầng văn minh đã qua, để quay lại với hạt nhân nguyên thủy.
Nguồn: Phan Cẩm Thượng - Tia Sáng
LÃO THƯ SINHLTS: Trong lúc đề tài cổ vật tìm thấy dưới sông Hương đang râm ran, Tòa soạn nhận được câu chuyện tự thuật hết sức thú vị dưới đây. Nhà “Gốm bể học” đã trên 30 năm “về chơi gốm bể”, vậy mà từ mảnh vườn xưa đầy lu hủ ấy lại có biết bao nhiêu nhân tình thế sự vây quanh nhà nghiên cứu Huế. Đọc câu chuyện này, có những đoạn anh em trong tòa soạn không khỏi tiếc thầm: Giá như mình có thể giúp cho nhà nghiên cứu Hồ Tấn Phan một điều gì đó, bởi vì những mảnh gốm ông kiếm về ấy, có phải ông dành cho riêng ông đâu, mà cho cả vùng văn hóa xứ Huế mà ông đã yêu nó biết bao nhiêu!
(tiếp theo phần 1)
LTS: Cổ vật tìm thấy dưới sông Hương gần đây là một đề tài thú vị thu hút các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu, đông đảo bạn đọc trong và ngoài nước quan tâm. Trong vài năm gần đây, báo chí cả nước đã đề cập đến khá nhiều các loại cổ vật dưới sông Hương được tìm thấy, song chưa ai đưa ra những giới thiệu tổng quan một cách khoa học về chúng.
Thuật ngữ “cổ vật” chúng tôi nói đây là để chỉ những đồ vật do khối óc và bàn tay con người làm ra và đã được sử dụng để thoả mãn những nhu cầu tinh thần và vật chất trong cuộc sống cách nay khá lâu hay rất lâu. Những đồ vật này có cái còn nguyên vẹn, có cái đã bị vỡ do sự va chạm theo dòng chảy của thời gian hay do sự vụng về, vô tâm của những người trục vớt.
Toàn bộ hai tầng của đàn Xã tắc - bộ phận quan trọng bậc nhất trong quần thể di tích - di sản thế giới tại Huế, đã được xác định rõ, đặc biệt trong đó là sự xuất lộ rất nhiều tầng đất khác nhau trên khu đàn chính... Đó là kết quả bước đầu của đợt khai quật khảo cổ học di tích đàn Xã tắc triều Nguyễn - TP Huế, do Bảo tàng Lịch sử VN tiến hành từ đầu tháng 2/2008 đến nay.