Nghệ sĩ Mai Xuân Hòa thổi sáo cho Bác Hồ nghe

10:22 19/01/2010
NGUYỄN QUANG HÀHầu như mỗi chúng ta chỉ biết Mai Xuân Hòa là nhạc sĩ. Anh đã ra mắt hai tập nhạc viết cho người lớn: "Nỗi đợi chờ", "Khát vọng",và hai tập cho thiếu nhi: " Những điều em thích", " Những ngôi sao đẹp".

Bác Hồ chụp ảnh chung với các nghệ sĩ Nam Định 1963

Các em thiếu nhi trong nước, đặc biệt là các em ở Thừa Thiên Huế đều thuộc: "Những ngôi sao đẹp", "Đội đồng ca chúng ta", "Cháu yêu Bác lắm", "Em là lính mới" của nhạc sĩ Mai Xuân Hòa. Đó là những bài hát đã được phát từ thời còn có "ĐÀI PHÁT THANH GIẢI PHÓNG", và bây giờ các em vẫn hát, sức sống của những bài hát ấy thật bền bỉ. Nó không hề giống như cách nói bây giờ "Mì ăn liền" mà nó được rút ra từ trong tâm huyết của tác giả. Nó là cuộc đời nên hôm qua và hôm nay vẫn đang chảy một mạch tình người. Vì thế nó không bao giờ cũ.

Những người lớn tuổi, nhất là thanh niên thì lại rất mê "Nỗi đợi chờ", "Chiều Thiên An" của anh.

Phải nói ở lứa tuổi nào Mai Xuân Hòa cũng trang trải cuộc đời mình vào đó, nên anh đã nói được lên tiếng nói của chính họ, tâm sự của chính họ.

Kể từ ngày bước chân vào ngưỡng của âm nhạc năm 1956, sau tám tháng dự khóa bồi dưỡng cán bộ phụ trách âm nhạc các tỉnh trong toàn quốc do trường Âm nhạc tổ chức tại Hà Nội. Mai Xuân Hòa nhập hồn với loại hình nghệ thuật này.Và anh liên tục gặt hái được thành công:

- Sáu ca khúc được tặng thưởng huy chương vàng, bạc của hội diễn văn nghệ quần chúng toàn quốc.

- Hai ca khúc thiếu nhi được thưởng huy chương bạc của Đài truyền hình Việt .

- Giải Cố Đô 83-93 với ca khúc "Nỗi đợi chờ".

- Giải Cố Đô 93-97 tập ca khúc thiếu nhi "Những điều em thích".

- "Một chiều Thiên An" đoạt giải A cuộc thi âm nhạc nhân 20 năm giải phóng thành phố Huế 1975 - 1995.

Được quần chúng yêu thích các ca khúc của mình, đó là phần thưởng của người nhạc sĩ. Nói về điều này nhạc sĩ Mai Xuân Hòa tâm sự: "Phần thưởng lớn nhất của tôi, niềm vinh dự nhất đời tôi là được thổi sáo cho Bác Hồ nghe năm 1963, nhân chuyến Bác Hồ về thăm Nam Định".

Mai Xuân Hòa sinh tại Thủy Trường thành phố Huế nhập ngũ năm 1945. Lúc ấy anh vừa 15 tuổi, và lập tức được nhập vào đoàn quân tiến. Trên đường vào tới Nha Trang, gặp địch, phải quay lại, chàng thiếu sinh quân trẻ măng ấy được điều về quân y Bắc 126 - 108 quân khu Năm.

Bị thương, tháng 10 - 1954 cùng đoàn thương binh tập kết ra Bắc, lên cửa Hội, rồi vào ở trại thương binh Nam Định. Năm 1956 anh theo học lớp nhạc khóa 2 và niên khóa 1958 - 1962 anh tiếp tục lớp nhạc dài hạn của trường âm nhạc Việt Nam (nay là Viện âm nhạc Hà Nội). Cả hai sự kiện trên đã dẫn anh về hoạt động ngành âm nhạc thuộc ty văn hóa Định.

Mai Xuân Hòa vốn yêu âm nhạc. Trong các loại nhạc cụ, anh mê nhất cây sáo trúc. Chiếc gậy hành quân của anh chính là cây sáo trúc của anh. Cây sáo ấy đã nhiều lần cùng Mai Xuân Hòa vượt lên trước hàng quân, chọn một địa điểm thích hợp, anh đứng thổi sáo, góp phần giục giã bước quân hành.

Ở trường nhạc ra, cùng với măng-đô-lin, an-tô, ghi-ta, Mai Xuân Hòa vẫn mê sáo trúc, anh đã sáng tác "Tiếng chim rừng" (1959) "Nhớ thương" (1963) là hai bản nhạc không lời viết cho sáo trúc. Hai bản nhạc này đã được nhà xuất bản âm nhạc Hà Nội in và trường âm nhạc Việt dùng cho chương trình học về cây sáo trúc.

Vừa sáng tác xong "Nhớ thương", nỗi khắc khoải của đứa con xa Huế, đúng lúc ấy Bác Hồ về thăm Nam Định. Thời gian Bác Hồ đi thăm thành phố Dệt, có một buổi ty văn hóa tổ chức cho các nghệ sĩ đàn hát cho Bác Hồ nghe. Mai Xuân Hòa vinh dự được có mặt trong buổi gặp gỡ này. Sau một loạt các nghệ sĩ trình diễn, đến tiết mục sáo của Mai Xuân Hòa. Anh thổi cho Bác nghe chính bài "Nhớ thương" do anh sáng tác.

Tiếng sáo đã gợi lên nỗi day dứt thương nhớ miền khôn nguôi khi 2 miền Nam Bắc đang còn chia cắt. Cả hội trường hoan nghênh nhiệt liệt. Bác lên sân khấu tặng cho anh một điếu thuốc lá, khác các nghệ sĩ nữ, Bác cho kẹo, các nghệ sĩ nam, Bác cho thuốc. Bác khen anh: "Được lắm, hãy cố gắng nữa để trở thành nghệ sĩ giỏi". Bác đưa thuốc cho anh. Thời gian này Mai Xuân Hòa vừa có đứa con đầu lòng. Anh muốn vinh dự này cho con, nên Mai Xuân Hòa thưa với Bác xin cho đổi điếu thuốc lấy kẹo. Giống như sự đã quy định, Bác không đổi. Nhưng khi về, Bác gửi hai cân kẹo cho các nghệ sĩ. Mai Xuân Hòa đã lấy phần này của mình cho con.

Mai Xuân Hòa bảo: "Đấy là niềm vinh dự nhất cuộc đời nghệ sĩ của tôi".

Đã ở tuổi 70, Mai Xuân Hòa hăng say sáng tác các bài hát cho thiếu nhi. Anh đã tìm thấy "sở trường của mình".

Nhân kỷ niệm 15 năm báo Thiếu niên Tiền phong, Mai Xuân Hòa chọn 15 bài thơ đăng trên báo, phổ nhạc, anh gửi 15 bài hát mới sáng tác ra chào mừng báo đội. 15 bài hát được hoan nghênh, đón chào ngay. Ngày vui ấy Mai Xuân Hòa được mời tham dự, được in ngay một bài trên báo, và báo đội quyết định in tập nhạc. "Người bạn thân thương" này cho nhạc sĩ.

Mỗi lần gặp anh, Mai Xuân Hòa lại có một bài hát mới, hiện nay anh đang tập trung thời gian để hoàn thành nhạc cảnh "Ngày hội hoa xuân" cho các cháu. Tuy vậy, gặp Bác, được thổi sáo cho Bác nghe đã hơn 30 năm, vậy mà lúc nào Mai Xuân Hòa cũng náo nức: "Bác đi xa rồi, mình vẫn nhớ Bác khôn nguôi. Cây sáo trúc đã dẫn mình đến với Bác. Dễ gì đời nghệ sĩ có được một lần như thế.

N.Q.H
(120/02-99)





 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • PHAN THỊ THU QUỲ(Hưởng ứng cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”)

  • LÊ KHAI           Bút kýAnh đưa tôi một tờ giấy cuộn tròn và nói: Tuần qua tôi đi tìm mộ liệt sĩ ở Truồi (huyện Phú Lộc). Tìm một mộ mà phát hiện ra tám mộ. Buồn! Tôi làm bài thơ. Anh xem và chữa giúp. Cả đời tôi chưa quen làm thơ.  Anh chào tôi rồi vội vã về vì đang có việc cần.

  • HÀ KHÁNH LINH            Trích Hồi ký… Mùa xuân 1967, địch tăng cường đánh phá suốt ngày đêm, ngày một ác liệt hơn. Các trạm khách dọc tuyến đường 559 không ngày nào không bị đánh trúng hoặc B52 hoặc bom tọa độ, hoặc pháo tầm xa. Ngày nào cũng có thương vong. Có những đơn vị trên đường hành quân vào Nam chưa đến địa điểm tập kết đã bị đánh tơi tả, chỉ còn sót lại vài người. Các cơ quan đơn vị đóng chung quanh khu vực phần nhiều đã bị đánh trúng.

  • TUỆ GIẢI NGUYỄN MẠNH QUÝ                                        Tạp bútNhư nhân duyên, như định mệnh, cuộc đời tôi như thu hết vào trong một chung trà. Tuổi thơ đã qua, bây giờ và sẽ mãi mãi, cuộc đời tôi luôn vương vấn một hương trà. Tôi thường hay nói đùa cùng bằng hữu rằng sinh ra và lớn lên được ướp trong hương trà, tôi cũng chỉ mơ một ngày về thiên cổ được vẫy tiễn linh hồn bằng một chén trà ngon, được chôn theo cùng là một bộ ấm trà quý nhất và được vẫn cùng người “hồng nhan tri kỷ” đồng ẩm tương phùng ở thế giới bên kia!!!

  • TRẦN KIM HỒĐảo Cồn Cỏ là vọng gác tiền tiêu, là con mắt của Vĩnh Linh - khu Vĩnh Linh là tiền đồn của miền Bắc XHCN, là hậu phương trực tiếp của tiền tuyến lớn miền Nam; do đó đảo Cồn Cỏ có vị trí vô cùng quan trọng, mặc dù diện tích chỉ có 4km2. Mât Cồn Cỏ, miền Bắc XHCN trực tiếp bị uy hiếp, nhất là vào lúc nguỵ quyền Ngô Đình Diệm không ngớt hô hào lấp sông Bến Hải, Bắc tiến; đế quốc Mỹ từng trắng trợn tuyên bố biên giới Hoa kỳ kéo dài đến vĩ tuyến 17.

  • PHẠM NGUYÊN TƯỜNGHai cái máy lạnh hai cục trong căn phòng 40m2 của nhà hàng Hoa Chuối cộng với cả trận mưa chiều đột ngột tầm tã không làm dịu được sức nóng từ tấm thịnh tình của gần 50 cộng tác viên thân thuộc của tạp chí Sông Hương tại thủ đô Hà Nội.

  • TÔ VĨNH HÀTrong lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, 60 năm qua là một chặng đường đặc biệt. Chưa bao giờ dân tộc ta phải đương đầu với nhiều thử thách đến như thế, phải chiến đấu và chiến thắng nhiều kẻ thù đến như thế. Pháp rồi Nhật, Tưởng và Anh; hết Mỹ đến Khơmer “đỏ”... Kẻ thù và đau khổ nhiều đến mức tưởng chừng như đất nước Việt Nam được tạo hoá sinh ra là để cho các loại kẻ thù nhòm ngó, tìm mọi cách thôn tính.

  • NGÔ MINHTừ tháng 7-1954, Hiệp định Giơnevơ ký kết cho đến cuối năm 1964 đôi bờ giới tuyến Hiền Lương lặng im tiếng súng, nhưng đây là 11 năm diễn ra cuộc đối đầu văn hóa nóng bỏng, quyết liệt nhất giữa ta và địch.

  • PHAN THỊ THU QUỲ Trên bờ Hương Giang êm đềm, có ngôi nhà nhỏ tôi được sinh ra ở đó. Hằng ngày tung tăng cắp sách đến trường Đồng Khánh, tôi cũng nhảy nhót trên bờ Hương Giang. Lớn lên tôi hoạt động nội thành thường đến hò hẹn bên cây phượng vỹ trước cửa Thượng Tứ, nơi đó là địa điểm giao nhận những “gói nhỏ”, để nhận công việc và để nhớ mật hiệu. Cho nên trên bờ Hương Giang tôi đã ngắm dòng sông thơ mộng với tôi gắn bó biết bao từ tuổi ấu thơ cho đến bước  vào đời.

  • NGUYỄN VĂN VINH                         Bút ký Thôn Hiền An, xã Vinh Hiền là một thẻo đất cát bạch sa cuối phá Tam Giang phía Bắc vào. Như một ốc đảo ba bề, bốn bên là nước, nếu không có đường 49B chạy dọc phá đến cùng đường, tận biển. Và mỗi ngày, hai chuyến xe đò chở khách cùng mấy chục chuyến đò ngang phá qua lại Lộc Bình đem chút xôn xao thị tứ, phố chợ về với thôn, xã thì Hiền An càng xa xôi heo hút.

  • TRẦN HOÀI                  Ghi chépThung lũng A Lưới chạy dài theo hướng Bắc Nam đến vài chục km. Đó là một thung lũng đẹp, là một vị trí quân sự chiến lược, là nơi giao tranh ác liệt giữa ta và địch trong cuộc kháng chiến vừa qua...

  • LÊ BÁ ĐẢNGBạn của tôi rất nhiều. Năm ba bạn mà tôi nhắc nhở ra đây phần nhiều là bác sĩ, kỹ sư, giáo sư còn nghệ sĩ thì chất cả đống.

  • NGUYỄN THẾ QUANGMùa hạ, trời Bát Tam Boong trong xanh. Những hàng cây thốt nốt lặng lẽ kiêu hãnh xòa những tán lá xanh che mát cả khu đồi. Trong căn nhà của sở chỉ huy Sư 179 quân đội Cămpuchia, trung tá Nguyễn Văn Du chuyên gia của bộ đội Việt Nam cởi thắt lưng ra treo khẩu K54 lên vách. Anh vui mừng trước khả năng chiến đấu ngày càng tốt của quân đội bạn. Trận đánh trả lực lượng quân đội Thái Lan bảo vệ sáu nghìn dân tị nạn ở chòm Rumthumây diễn ra nhanh chóng.

  • TỐ HỮU        Trích chương V, hồi ký Nhớ lại một thời

  • VÕ MẠNH LẬP            Ghi chépTrong những ngày tháng ba, hai lẻ sáu trời Hà Nội đẹp và dễ chịu. Cái nắng vàng phủ tràn thành phố, tôn màu của cây thêm xanh biếc, ngói trên các mái nhà như thắm thêm lên, đường phố đi lại thanh thoát và đặc biệt có chút se lạnh vào sáng sớm như sợi tơ vương của hơi thở cuối mùa đông còn lưu sót lại.

  • NGUYỄN QUANG HÀ                          Bút kýMã Yên là tên trên bản đồ của một ngọn núi, còn dân địa phương thì gọi đó là núi Yên Ngựa. Núi Yên Ngựa là một trong những ngọn núi ngoài cùng về phía Đông của dãy Trường Sơn.

  • NGUYỄN QUANG HÀ                         Bút kýNắng chiều vàng trải dài trên những hàng bia trắng như mơ, như kỳ ảo. Đi trong nghĩa trang tôi có cảm giác mình như đang ngỡ ngàng, có cái gì đó nghèn nghẹn nơi cổ khi hàng hàng những bia trắng dài kia không có một nét mực ghi tên. Đó là những tấm bia vô danh.

  • NGUYỄN TRI TÂMNgười kể chuyện phải lục tìm những tấm ảnh lưu niệm để nhớ chính xác hơn. Sau tấm ảnh đen trắng cỡ 18x24, tướng Hoàng Văn Thái kí tên và ghi rõ “Thân tặng đồng chí trung tá Lương Văn Chính, người chiến sĩ Điện Biên năm xưa, huyện đội trưởng huyện đội Điện Biên. Kỉ niệm ngày lên thăm Điện Biên 3-4-1984”.

  • TẤN HOÀIHưởng ứng cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí MinhĐêm đó, Bác nghỉ lại tại Cọt Mạ - một thị trấn nhỏ của Trung Quốc, thị trấn nhỏ như một bản miền núi miền nam Trung Quốc, có một cái chợ nhỏ, cách biên giới Việt Nam khoảng trên bốn cây số. Tất nhiên, đó là một cơ sở của cách mạng Trung quốc. Hôm sau, Bác về nước cùng với những đồng chí Việt Nam đi đón Bác trong đó có Dương Đại Lâm, Lê Quảng Ba, Bằng Giang. Những người này về sau trở thành cán bộ lãnh đạo của khu tự trị Việt Bắc. Bác về đúng vào tháng 2 năm 1941. Bác đã ghi trên một phiến đá trong hang Cốc Bó, nằm trong khu vực Pác Bó. Gia tài Bác chỉ có một chiếc va li cũ đan bằng mây, bên cạnh một chiếc máy đánh chữ mà Bác luôn luôn xách bằng tay.

  • HOÀNG QUỐC HẢI                        Bút kýVì sao khi Lý Công Uẩn (Lý Thái Tổ) được nước, cung điện nơi thành Hoa Lư các vua Đinh, vua Lê dựng như “điện Bách Bao thiên tuế, cột điện dát vàng, dát bạc làm nơi coi chầu, bên đông là điện Phong Lưu, bên tây là điện Cực Lạc, rồi làm lầu Đại Vân, dựng điện Trường Xuân làm nơi vua ngủ, bên cạnh điện Trường Xuân lại dựng điện Long Lộc, lợp bằng ngói bạc...”, lâu đài điện các như thế, tưởng đã đến cùng xa cực xỉ.