Ngày Tết cổ truyền nhớ Bác

15:42 24/01/2020

CHÍ QUANG  

Tết Nguyên đán là ngày lễ hội lớn nhất trong năm của toàn dân tộc. Những nghi lễ, tập tục ngày Tết biểu hiện đậm nét văn hóa Việt Nam, chứa đựng tổng thể văn hóa tâm linh, văn hóa ứng xử, văn hóa giao tiếp, văn hóa nghệ thuật trong đời sống.

Tác phẩm Chủ tịch Hồ Chí Minh qua những khoảnh khắc của họa sĩ Võ Quang Phát

Hơn ai hết, Bác Hồ am hiểu sâu sắc ý nghĩa các lễ nghi, phong tục Tết, tâm lý của cán bộ và nhân dân ta đối với ngày Tết của dân tộc. Trong những ngày đầu kháng chiến, dù bộn bề công việc nhưng Người vẫn dành sự quan tâm đến tất cả mọi người dân đất Việt trong ngày Tết cổ truyền của dân tộc. Trong dịp Tết đến xuân về, chúng ta nhớ về Chủ tịch Hồ Chí Minh và những việc Người đã làm cho dân tộc và để thấy được tinh thần lạc quan của dân tộc trong những lúc chiến tranh, để từ đó mà thêm thương yêu hơn đất nước mình, một đất nước anh hùng.

Sau 30 năm đi tìm đường cứu nước, đến tháng 2 năm 1941 vào dịp tết Nguyên đán, Bác Hồ đã về Pác Bó tỉnh Cao Bằng để lãnh đạo cuộc cách mạng trong nước. Sau 30 năm bôn ba khắp năm châu bốn biển, xa quê hương đất nước, Bác đã có 30 cái tết ở xứ người. Bao niềm thương nỗi nhớ, bao gian khổ khó khăn và nguy hiểm đến với Bác, nhưng chính trong những mùa xuân ấy, Bác đã tìm ra con đường đấu tranh giải phóng dân tộc, đem lại những mùa xuân tươi đẹp cho mỗi chúng ta hôm nay và mãi mãi về sau.

Từ khi về nước, Người đã cùng với Trung ương Đảng và Chính phủ lãnh đạo cuộc kháng chiến của dân tộc ta giành nhiều thắng lợi quan trọng. Song Người vẫn chăm lo đến đời sống vật chất, tinh thần của mọi người mỗi khi tết đến xuân về. Tết Tân Tỵ năm 1941 là cái tết đầu tiên Bác vui tết cùng với đồng bào các dân tộc miền núi phía Bắc, Bác mặc bộ quần áo chàm, tay chống gậy trúc cùng các đồng chí Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Phùng Chí Kiên đi chúc tết bà con. Đến nhà ai Bác cũng tặng dòng chữ “Cung chúc tân niên” do chính tay người viết trên giấy hồng điều, những mong mọi nhà đón tết vui vẻ hạnh phúc. Cũng từ năm ấy đến sau này, cứ mỗi dịp tết đến, vào thời khắc giao thừa, là Bác Hồ viết thơ chúc tết gửi đến đồng bào và chiến sĩ cả nước với nội dung kêu gọi quân và dân tích cực lao động, sản xuất, thực hành tiết kiệm, thi đua giết giặc lập công.

Trong hoàn cảnh nước nhà còn nhiều khó khăn thiếu thốn, Bác viết bài “Tết Độc lập”; trong đó Người nhấn mạnh: “Suốt năm chúng ta thi đua lao động sản xuất, nhân ngày tết Nguyên đán, chúng ta vui chơi một hôm để chào xuân, việc đó cũng đúng thôi. Nhưng chúng ta nên mừng xuân một cách vui vẻ và lành mạnh. Nếu có bao nhiêu tiền đều bỏ ra mua sắm hết để đánh chén lu bù, thế là mừng xuân một cách lạc hậu, thế là lãng phí, thế là không xuân. Nên nhớ rằng hiện nay chúng ta phải cần kiệm để xây dựng nước nhà. Không nên vì một cớ gì mà quên nhiệm vụ ấy”. Những năm kháng chiến Bác đều khuyên cán bộ, nhân dân và bộ đội phải hết sức tiết kiệm, tránh lãng phí xa hoa, dồn sức cho kháng chiến kiến quốc. Tết Giáp Ngọ năm 1954, mặt trận Điện Biên Phủ đang vào giai đoạn quyết liệt để giành toàn thắng. Bác Hồ viết bài thơ chúc tết, trong đó có câu: “Quân và dân ta nhất trí kết đoàn/ Kháng chiến kiến quốc nhất định hoàn toàn thành công”.

Những năm sau này, Bác sống và làm việc ở Thủ đô Hà Nội. Mỗi khi tết đến, mặc dù bận trăm công ngàn việc, Bác vẫn dành thời gian để đi thăm hỏi và tặng quà tết cho các cơ quan, xí nghiệp, công trường, các đơn vị bộ đội, các gia đình lao động. Bác vào thăm chợ Đồng Xuân để xem không khí đón tết của nhân dân ở Thủ đô sau ngày giải phóng; rồi Bác tổ chức cho các đồng chí lãnh đạo cao cấp của Đảng và Nhà nước, các Tướng lĩnh cùng Đội cảnh vệ được vui xuân đón tết cùng Bác tại Phủ Chủ tịch. Những tình cảm sâu nặng ấy đã góp phần động viên cổ vũ quân và dân ta tiến lên giành nhiều thắng lợi mới.

Năm 1960 là năm có nhiều sự kiện chính trị đặc biệt. Trong thơ mừng xuân mới, Bác đã mở đầu bằng hai câu thơ: “Mừng Nhà nước ta 15 xuân xanh/ Mừng Đảng chúng ta 30 tuổi trẻ”, Bác đã khen ngợi những nơi tiết kiệm và phê bình sự lãng phí trong dịp tết. Bác viết: “Cán bộ phải chú ý chăm lo sinh hoạt của anh em trong những ngày tết. Đối với các đồng chí công nhân cán bộ nước ngoài giúp ta, các anh em người Âu, Phi lâu nay sống đã quen với phong tục Việt Nam, nên làm sao cái tết của xây dựng phải vui hơn tết kháng chiến, song phải tránh lãng phí không cần thiết”. Lời dạy của Bác càng thắt chặt hơn tình cảm quốc tế giữa công nhân Việt Nam với chuyên gia các nước bạn.

Năm 1969, tuy sức khỏe yếu đi nhiều vì tuổi tác nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn cố gắng gặp gỡ nhân dân, các cháu thiếu niên, nhi đồng và các chiến sĩ quân đội nhân dịp năm mới. Đúng ngày mùng 1 Tết, tại đồi Vật Lại (Sơn Tây, Hà Nội), Người đã trồng cây đa trong mùa xuân cuối cùng… Từ đầu tháng Chạp, tiếng nói của Người đã bị lạc giọng, dù các bác sĩ đã tích cực chữa trị nhưng chỉ đỡ được phần nào. Vì muốn lời chúc mừng năm mới gửi tới đồng bào chiến sĩ cả nước qua máy thu thanh đêm giao thừa được rõ ràng, khỏe khoắn, Người đã luyện tiếng bằng cách đọc thơ Kiều một tuần liền. Ngày 6/2/1969 (20 tháng Chạp), tại phòng khách nhỏ trong Phủ Chủ tịch, Bác Hồ đọc to lời chúc mừng năm mới vào máy ghi âm để phát vào đêm 30 Tết tới nhân dân cả nước. Sau khi đọc xong, Người ngồi nghỉ một lúc rồi mới quay về Nhà sàn. Chiều ngày 12/2 (26 tháng Chạp), Bác Hồ gặp một số con em cán bộ đang công tác ở miền Nam, mời các cháu ăn bánh chưng, mứt tết, hỏi thăm việc học hành của các cháu và chúc các cháu mau tiến bộ để cha mẹ yên tâm công tác.

Cũng trong dịp tết này, Người còn gửi điện chúc mừng năm mới phái đoàn ngoại giao của ta đang công tác ở Paris và các bạn Pháp bằng bài thơ: “Xuân gà túc tác đến nơi; Gửi người thân thiết mấy lời mừng xuân; Gà xuân túc tác rạng đông; Đưa tin thắng lợi cờ hồng bay cao”.

Hơn 50 năm ngày Bác đi xa, đọc lại những mẩu chuyện, bài viết, và những vần thơ của Bác mỗi dịp tết đến xuân về, ta như được sống lại những năm tháng trong tình thân ái bao la của Bác; như vẫn được Người ân cần dạy bảo những vấn đề to lớn quốc gia đến những công việc bình thường trong cuộc sống hàng ngày. Mùa xuân Canh Tý 2020, chúng ta cùng nhau nhớ lại những lời trong bản Di chúc lịch sử của Bác, nhớ những lời căn dặn của Người, xây dựng đất nước “càng ngày càng xuân”.

C.Q
(TCSH372/02-2020)  

..............................................
Tài liệu tham khảo:

1. Theo dấu chân Bác Hồ - Nxb. Chính trị quốc gia 2014.
2. Hồ Chí Minh toàn tập - Nxb. Chính trị quốc gia 2011.
3. Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử - Nxb. chính trị quốc gia 2009.
4. Hồ Chí Minh tiểu sử - Nxb. Lý luận chính trị 2006.  




 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • BỬU Ý

    Hàn Mặc Tử (Nguyễn Trọng Trí) từng sống mấy năm ở Huế khi còn rất trẻ: từ 1928 đến 1930. Đó là hai năm học cuối cùng cấp tiểu học ở nội trú tại trường Pellerin (còn gọi là trường Bình Linh, thành lập năm 1904, do các sư huynh dòng La San điều hành), trường ở rất gần nhà ga tàu lửa Huế. Thời gian này, cậu học trò 17, 18 tuổi chăm lo học hành, ở trong trường, sinh hoạt trong tầm kiểm soát nghiêm ngặt của các sư huynh.

  • LÊ QUANG KẾT
                   

    Giai điệu và lời hát đưa tôi về ngày tháng cũ - dấu chân một thuở “phượng hồng”: “Đường về Thành nội chiều sương mây bay/ Em đến quê anh đã bao ngày/ Đường về Thành nội chiều sương nắng mới ơ ơ ơ/ Hoa nở hương nồng bay khắp trời/ Em đi vô Thành nội nghe rộn lòng yêu thương/ Anh qua bao cánh rừng núi đồi về sông Hương/ Về quê mình lòng mừng vui không nói nên lời…” (Nguyễn Phước Quỳnh Đệ).

  • VŨ THU TRANG

    Đến nay, có thể nói trong các thi sĩ tiền chiến, tác giả “Lỡ bước sang ngang” là nhà thơ sải bước chân rong ruổi khắp chân trời góc bể nhất, mang tâm trạng u hoài đa cảm của kẻ lưu lạc.

  • TRẦN PHƯƠNG TRÀ

    Đầu năm 1942, cuốn “Thi nhân Việt Nam 1932-1941” của Hoài Thanh - Hoài Chân ra đời đánh dấu một sự kiện đặc biệt của phong trào Thơ mới. Đến nay, cuốn sách xuất bản đúng 70 năm. Cũng trong thời gian này, ngày 4.2-2012, tại Hà Nội, Xuân Tâm nhà thơ cuối cùng trong “Thi nhân Việt Nam” đã từ giã cõi đời ở tuổi 97.

  • HUYỀN TÔN NỮ HUỆ - TÂM
                                      Đoản văn

    Về Huế, tôi và cô bạn ngày xưa sau ba tám năm gặp lại, rủ nhau ăn những món đặc sản Huế. Lần này, y như những bợm nhậu, hai đứa quyết không no nê thì không về!

  • LƯƠNG AN - NGUYỄN TRỌNG HUẤN - LÊ ĐÌNH THỤY - HUỲNH HỮU TUỆ

  • BÙI KIM CHI

    Nghe tin Đồng Khánh tổ chức kỷ niệm 95 năm ngày thành lập trường, tôi bồi hồi xúc động đến rơi nước mắt... Con đường Lê Lợi - con đường áo lụa, con đường tình của tuổi học trò đang vờn quanh tôi.

  • KIM THOA

    Sao anh không về chơi Thôn Vỹ
    Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên        
          
                       (Hàn Mạc Tử)

  • NGUYỄN VĂN UÔNG

    Hôm nay có một người du khách
    Ở Ngự Viên mà nhớ Ngự Viên         
     

    (Xóm Ngự Viên - Nguyễn Bính)

  • HOÀNG THỊ NHƯ HUY

    Tôi biết Vân Cù từ tấm bé qua bóng hình người đàn bà gầy đen, gánh đôi quang gánh trĩu nặng trên vai, rảo khắp các xóm nhỏ ở Thành Nội, với giọng rao kéo dài: “Bún…bún…ún!” mà mẹ đã bao lần gọi mua những con bún trắng dẻo mềm.

  • LÊ QUANG KẾT                
                      Tùy bút

    Hình như văn chương viết về quê hương bao giờ cũng nặng lòng và giàu cảm xúc - dù rằng người viết chưa hẳn là tác giả ưu tú.

  • TỪ SƠN… Huế đã nuôi trọn thời ấu thơ và một phần tuổi niên thiếu của tôi. Từ nơi đây , cách mạng đã đưa tôi đi khắp mọi miền của đất nước. Hà Nội, chiến khu Việt Bắc, dọc Trường Sơn rồi chiến trường Nam Bộ. Năm tháng qua đi.. Huế bao giờ cũng là bình minh, là kỷ niệm trong sáng của đời tôi.

  • LÊ QUANG KẾT

    Quê tôi có con sông nhỏ hiền hòa nằm phía bắc thành phố - sông Bồ. Người sông Bồ lâu nay tự nhủ lòng điều giản dị: Bồ giang chỉ là phụ lưu của Hương giang - dòng sông lớn của tao nhân mặc khách và thi ca nhạc họa; hình như thế làm sông Bồ dường như càng bé và dung dị hơn bên cạnh dòng Hương huyền thoại ngạt ngào trong tâm tưởng của bao người.

  • HUY PHƯƠNG

    Nỗi niềm chi rứa Huế ơi
    Mà mưa trắng đất, trắng trời Thừa Thiên         
                          
                                              (Tố Hữu)

  • PHAN THUẬN AN

    Huế là thành phố của những dòng sông. Trong phạm vi của thành phố thơ mộng này, đi đến bất cứ đâu, đứng ở bất kỳ chỗ nào, người ta cũng thấy sông, thấy nước. Nước là huyết mạch của cuộc sống con người. Sông là cội nguồn của sự phát triển văn hoá. Với sông với nước của mình, Huế đã phát triển theo nguyên tắc địa lý thông thường như bao thành phố xưa nay trên thế giới.

  • MAI KIM NGỌC

    Tôi về thăm Huế sau hơn ba thập niên xa cách.Thật vậy, tôi xa Huế không những từ 75, mà từ còn trước nữa. Tốt nghiệp trung học, tôi vào Sài Gòn học tiếp đại học và không trở về, cho đến năm nay.

  • HOÀNG HUẾ

    …Trong lòng chúng tôi, Huế muôn đời vẫn vĩnh viễn đẹp, vĩnh viễn thơ. Hơn nữa, Huế còn là mảnh đất của tổ tiên, mảnh đất của trái tim chúng tôi…

  • QUẾ HƯƠNG

    Năm tháng trước, về thăm Huế sau cơn đại hồng thủy, Huế ngập trong bùn và mùi xú uế. Lũ đã rút. Còn lại... dòng-sông-nước-mắt! Người ta tổng kết những thiệt hại hữu hình ước tính phải mươi năm sau bộ mặt kinh tế Thừa Thiên - Huế mới trở lại như ngày trước lũ. Còn nỗi đau vô hình... mãi mãi trĩu nặng trái tim Huế đa cảm.

  • THU TRANG

    Độ hai ba năm thôi, tôi không ghé về Huế, đầu năm 1999 này mới có dịp trở lại, thật tôi đã có cảm tưởng là có khá nhiều đổi mới.

  • TUỆ GIẢI NGUYỄN MẠNH QUÝ

    Có lẽ bởi một nỗi nhớ về Huế, nhớ về cội nguồn - nơi mình đã được sinh ra và được nuôi dưỡng trong những tháng năm dài khốn khó của đất nước, lại được nuôi dưỡng trong điều kiện thiên nhiên vô cùng khắc nghiệt. Khi đã mưa thì mưa cho đến thúi trời thúi đất: “Nỗi niềm chi rứa Huế ơi/ Mà mưa xối xả trắng trời Trị Thiên…” (Tố Hữu). Và khi đã nắng thì nắng cho nẻ đầu, nẻ óc, nắng cho đến khi gió Lào nổi lên thổi cháy khô trời thì mới thôi.