Ngày đi lạc

09:42 02/10/2008
QUẾ HƯƠNGTôi băng qua đường để lên cầu Trường Tiền. Thằng Tí kéo tay tôi lại: “Cậu qua đường mần chi, xe cán chừ!”. Tôi cứ qua. Đám trẻ con đang chơi ở công viên trước mặt ném đá vào tôi. Tôi chạy lên cầu. Đám trẻ réo: “Ông điên! Ông điên!”. Tí chạy theo, vừa thở, vừa nắm tay tôi: “Ai bảo cậu qua bên ni, dắt cậu thiệt mệt!”.

Tôi kéo nó áp sát thành cầu tránh xe đạp phía sau. Nhìn lại chẳng thấy chiếc xe nào cả, chỉ vài người đi bộ. Tất cả xe đều đi dưới lòng cầu, kể cả xe đạp. Cảnh sát giao thông hôm nay đi đâu vậy cà? Thường xe đạp đi lối riêng, sát lối bộ hành. Tôi nhìn xuống sông. Nước sông đục ngầu. Không xanh, không trong là không phải sông Hương rồi. Hai nữ sinh tóc thề, đồng phục trắng ôm cặp đi trước. Tôi ư ử: “Em tan trường về, đường mưa nho nhỏ...
- Cậu có im đi không? Đi với cậu thiệt ốt dột!
- Sông Hương mô rồi? - Tôi hỏi thằng Tí.
- Đó tề! - Hắn chỉ xuống dòng nước đùng đục.
- Rivière des parfumes kia!(*) - Tôi la to rồi hát: Một dòng sông xanh xanh... Một dòng sông thơm ngát...
- Cậu có im không? Mấy chị nớ cười tề!

Tôi vượt lên hai o nữ sinh Đồng Khánh đang ngoái nhìn tôi. Mau lên. Đôi khi gặp Thư cũng có. Giờ này nàng đi học đây. Tí theo sau, làu bàu:
- Giá ngoại cho cháu đi chơi một mình không dắt theo cậu...
Xuống hết cầu, tôi chạy ào qua đường. Thằng Tí chạy theo. Mấy người đi đường nhìn ông đầu to chạy trước, thằng đầu nhỏ chạy sau, cười. Tôi nhìn cái khách sạn màu hồng diễm lệ. Ủa, mô ra đây? Tôi chạy qua bên hông, nơi có cánh cửa nhỏ mở vào thư viện Văn Khoa. Vẫn thấy màu hồng của khách sạn. Tôi bảo thằng Tí:
- Tau vào giảng đường nghe cha Lan giảng bài!
- Cậu điên thật! Đây là khách sạn ai mà giảng bài.
Tôi đi dọc theo mái hiên. Đúng là Morin mà! Tôi nhìn vào cửa kính. Phòng thí nghiệm của trường Đại học Khoa Học sao không thấy dụng cụ thí nghiệm, chỉ thấy mấy cô đẹp đẽ trẻ măng? 
- Đi cậu! Chỗ đó toàn Tây ở không à! Họ bắt đấy!

Thằng Tí kéo tay tôi dắt đi. Tôi ngoái nhìn cái công viên nhỏ trước trường Văn Khoa, nơi tôi và Thư, hai đứa trẻ đôi mươi vào chơi tuột cầu.
Tôi ngồi cạnh Thư bên cửa sổ giảng đường Văn Khoa nhìn xuống hàng cây muối. Bao giờ tôi cũng ngồi cạnh nàng. Nàng không ghi bài, chống cằm say sưa nhìn cha Lan  thao thao bất tuyệt môn Thẩm mỹ văn chương. Cục yết hầu chạy lên chạy xuống và đôi tay có những ngón dài thanh mảnh như tay nghệ sĩ dương cầm đang phù phép Thư. Nàng bảo nàng mê cha giảng bài. Có gì lôi cuốn tợn. Giá cha không phải là linh mục...
 Tôi rủ: “Lấy cours rồi. Chuồn không? Xuống công viên ngồi đu thăng bằng như hai đứa trẻ kia kìa. Dám không?”. “Hết giờ cha Lan đã” - Nàng bảo.
Nàng một đầu. Tôi một đầu. Nàng xuống. Tôi lên. Tôi lên. Nàng xuống. Gió tung tà áo lụa và mái tóc dài của nàng đẹp đến chảy nước mắt...
- Cậu vào công viên đó mần chi?  
- Tau vào tuột cầu.
Thằng Tí lắc đầu kéo tôi ra:
- Giành chơi của con nít, chúng ném đá bể đầu!
- Rứa tau lên thư viện đọc sách...
- Họ không cho cậu mượn sách mô!
- Tau có thẻ sinh viên mà!
Bên kia đường trái banh vụt qua vụt lại. Thằng Tí ngẩn ngơ trông theo. Bàn tay nó thả lỏng tay tôi:
- Thôi cậu vào thư viện đi! Nhớ đừng đi mô nghe! Cậu đi lạc, ngoại đánh cháu chết. Cháu qua bên nớ coi đánh tennis một chút.

Tôi bước lên những bậc thềm cao. Có tiếng xì xào: “Phước điên tề! Điên nhưng đọc sách tiếng Anh, tiếng Pháp được hết:”. Tôi lại hộc đựng phiếu. Hộc kẹt cứng. Tôi giật mạnh. Cái hộc rớt ra ngoài. Có tiếng la: “Lôi ông ta ra!”. Một người nào đó xốc nách tôi lôi xềnh xệch ra cửa. “Ra. Đồ điên!” - “Tôi muốn đọc. Tôi có thẻ!” - Tôi trì người hét lên nhưng ông ta cứ kéo bừa đẩy tôi đẩy ra đường. Tôi ngẩng lên nhìn cái bảng: Thư viện trường Đại học tổng hợp Huế. Đầu tôi sao đau thế này!
Dưới sân thư viện có khoảng vài chục sinh viên. Ngoài đường Lê Lợi cảnh sát dã chiến vây quanh. Một trung úy chỉ huy tay cầm quả lựu đạn khói hô to: “Yêu cầu các anh giải tán. Tôi đếm một đến mười, không giải tán chúng tôi dùng vũ lực”.
Khoa đứng trên bậc thềm vừa đọc xong bản tuyên ngôn của sinh viên đang hô to khẩu hiệu. Tên trung úy ném ngay quả lựu đạn khói vào anh nhưng lại trúng đầu tôi. Khói mù mịt, cay xè. Chúng tôi chạy luồn ra cổng sau thư viện, chạy về đường Trương Định, tạt vào một con hẻm nhỏ...

Tôi đi về phía bệnh viện. Con đường có hai hàng cây long não đẹp lạ lùng. Thư bảo chúng hôn nhau. Tôi men theo rào bệnh viện. Hai tay buông thõng. Đầu gục xuống. Tôi bắt đầu khóc ư ử. Nhiều người đi ngược chiều nhìn tôi.
Khoa ôm khẩu AK chạy dọc đường Ngô Quyền. Tôi chạy theo. Khoa chạy vào sân khoa Tai Mũi Họng. Một quả súng cối dội tức cả ngực tôi. Khi tôi đến... đầu Khoa gối lên bậc thềm.
Tôi đi về phía chỗ Khoa nằm. Bệnh nhân đang chờ khám rất đông. Chỗ Khoa gối đầu lên, một đứa bé đang đứng. Tôi thấy rõ vệt máu của Khoa dưới chân em. Tôi òa khóc. Có người bảo: “Ông ta điên” - Tôi khóc to hơn. Tôi thấy Khoa nằm đó, đầu vỡ nát. Một người có khuôn mặt quen quen bảo: “Mạ mi tìm sáng chừ… Về đi!” - “Không. Tui đi đón Thư. Thư ơi!” - Tôi gọi và chạy về phía trường Đồng Khánh .

Tụi con gái đang thi chạy. Cô bé nhỏ nhắn, tóc dài, gương mặt dễ thương chạy nhanh nhất. Giò nàng dài, thân nàng mảnh, gió cuốn nàng như chiếc lá. Tụi học sinh trường Quốc Học ngồi trên bờ tường hoan hô nàng kịch liệt. Nàng về đích trước nhất và hất mặt nhìn chúng tôi. Tôi nhìn màu chỉ thêu bảng tên nàng. Màu hồng. Đệ nhị. Đi theo nàng thật mệt. Phải luyện chạy để đua với lũ mắc dịch theo nàng. 
Tôi tăng tốc. Học trò đang tan học. Trường Đồng Khánh sao hôm nay có lũ con trai vậy hè? Một thằng đập cái cặp vào lưng tôi. Tôi hỏi: “Lớp nhị C1 về chưa?”. Chúng phá lên cười.
Tôi chờ Thư bên đường, chỗ có hồ phun nước. Bông hoa súng tím duy nhất vươn lên mặt hồ đẹp khôn tả. Thư đòi: “Hái cho em đi!” - “Cho nó sống hết đời hoa. Vô tay em là tàn”. - “Kệ. Hái cho em đi! Ở trong nước nó cũng  tàn. Anh là chúa lôi thôi!”.

Học trò đã về hết. Không có Thư của tôi. Tôi rảo bước về phía ga. Đi qua trường Luật thấy mấy dây phơi quần áo. Mấy đứa con nít chơi bắn bi bên vệ đường vây quanh tôi bảo tôi hát. Tôi hát: “Xưa theo Ngọ về mái tóc Ngọ dài. Hôm nay đường này cây cao hàng gầy đi quanh tìm hoài ai mang bụi đỏ đi rồi...”
Tôi vừa hát vừa đi về phía Nam Giao. Một khúc đuôi đi theo tôi. Thấy một đám tang tôi ngừng hát giở mũ chào. Tụi con nít cười phá lên: “Đúng là điên!”. Tôi chạy lên dốc Nam Giao. Tôi đã chạy theo đồng đội hướng này bỏ Thư và thành phố lại sau lưng.
Tôi lại chạy. Thư ơi! Thư ơi!
- Cậu ơi! Đừng chạy nữa. Trời ơi, tìm cậu muốn chết!
Tiếng thằng Tí sau lưng tôi. Tôi đứng đợi cái bóng đen đủi, loắt choắt của đứa cháu. Nó nắm chặt tay tôi, vừa nói vừa thở:
- Tìm cậu gần rục cẳng. Đã dặn ở yên trong thư viện. Lớn rồi mà nói không nghe. May mà mấy đứa con nít chỉ lên hướng ni. Cháu có về nhà nhưng không dám vô. Tìm không thấy cậu chết với ngoại! Mà chừ cậu còn đi mô nữa?
- Tau đi tìm cô Thư. Nhà cô trên dốc!
- Trời ơi! Cô Thư và chồng đi Mỹ lâu rồi. Cô có gửi ảnh mấy năm trước cậu quên rồi à? Về cho rồi, đói bụng quá! Cậu đói không?
- Đói. - Tôi ôm bụng nhăn mặt.

Từ hôm đi lạc một ngày, bệnh ông Phước có phần nặng. Cứ lảm nhảm. Gia đình gửi ông vào khoa tâm thần bệnh viện Huế. Có một ông bác sĩ trẻ oái oăm bắt ông viết trên giấy chuyện ngày đi lạc. Đoạn viết trên đây là của ông Phước. Ông bác sĩ ấy đọc xong bảo ông Phước không điên. Nhưng các bác sĩ khác không đồng ý. Ai mà không biết Phước điên!
Kết luận cuối cùng ở bệnh án:
Trần văn Phước, sinh năm 1946
Hội chứng tâm thần
Điều trị: Thuốc an thần,  quản lý tại gia
Nhiều năm sau, không ai thấy Phước điên lang thang trên đường phố Huế nữa.
Q.H
(nguồn: TCSH số 224 - 10 - 2007)
--------------------
(*) Sông Thơm - tiếng Pháp.

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TRẦN THÙY MAIThấp thoáng trong văn Trần Thùy Mai là sự phô phang hình hài của linh tự. Những linh tự tủi buồn bởi hết thảy chúng đều được hoài thai từ “độ chênh” của những mối tình khó lần ra hồi kết. Điều đó khiến mỗi truyện ngắn của Mai như là một miếng hồng trần nhỏ nhắn - chị lặng lẽ vấy vá bằng sợi tầm ma trước mỗi rạng đông...

  • NGUYỄN NGUYÊN PHƯỚC Vào một buổi tối mùa thu, Đinh Hoài Viễn, một nhà văn trẻ tuổi, một người hoàn toàn vô danh trong văn giới, trong khi bóc phong thư mới nhận được vào buổi sáng ngày hôm đó, đã phát hiện ra ở mặt sau cái phong bì rỗng ấy một văn bản kỳ lạ trong hình thức của một truyện ngắn không đề tên tác giả.

  • ĐỖ KIM CUÔNGQuán cà phê cây sứ của vợ chồng Tư Hiền nằm ngay mặt tiền con đường nhỏ dẫn ra biển. Quán không trang hoàng đèn xanh đèn đỏ, không quầy két, không người chạy bàn, chỉ dăm ba bộ bàn ghế nhựa rẻ tiền.

  • HƯƠNG LANNàng sống trong một ngôi nhà xưa, được xây cất từ đời ông cố của nàng, tính ngót nghét nó cũng hơn trăm tuổi. Ngôi nhà nằm giữa một khu vườn mênh mông.

  • LƯƠNG VĂN CHILGT: Nhà tù, nơi chưa mảy may cải hóa được người đàn ông từng trác táng trên nền đạo đức xã hội, nhưng... Truyện được thắt nút khi Thuần “lột trần” vẻ đẹp phồn sinh xuân thì để minh chứng cho những ham muốn nguyên khai của con người là có giới hạn. Không khiên cưỡng ở nhiều chi tiết nhạy cảm, không tục trần trên từng đường cong mỹ diệu... Kịch độc đã thật sự “tiêm” những rung cảm lạ lùng vào miền hoang mê của lương tri đồng loại.

  • GIAO CHỈ    Bão tố thường nổi dậy từ biển khơi hùng vĩ và kể cả. Những hút gió sấn sổ táp xuống mặt đất bao la quăng dội, tàn sát điên cuồng cho hả những cơn giận dồn góp lâu dài.

  • NGUYỄN ĐẶNG MỪNG Những người thắt đáy lưng ongVừa khéo chiều chồng lại khéo nuôi con                                                     (Tục ngữ)

  • TRẦN THÙY MAIỞ tuổi bốn mươi da mặt nàng vẫn trắng hồng, chưa thoáng một nếp nhăn. Ai nhìn kỹ lắm mới thấy những vết hằn bắt đầu hiện ra quanh cổ, thường được che rất khéo bởi những chuỗi hạt trang nhã. Mà đâu ai nhìn kỹ làm gì. Đứng trước một người đàn bà, dại gì không dán mắt vào vẻ đẹp mà lại đi săm soi tìm khuyết điểm.

  • NHẤT LÂMKinh thành Huế năm Bính Thìn, thiên hạ xôn xao vì một vụ án đại hình gây bất bình trong cả nước, và để lại cho hậu thế một nỗi tiếc thương khôn nguôi cho hai nhà chí sĩ.

  • XUÂN ĐÀILàng Tân Mỹ Đông nằm dưới chân núi Tịnh Hồng, trước năm 1975 là vùng của quốc gia, nói cho ngay ban ngày quốc gia điều khiển về hành chính, ban đêm “việt cộng” kiểm soát mọi mặt. Trong làng nhiều người đi lính hai phía, phía nào cũng có sĩ quan cấp tá, cấp úy và binh nhất, binh nhì…

  • TRẦN DUY PHIÊN1. Xuống tới biền, Lê và tôi thấy chú Phip và hai con bò đứng bên giàn cày. Chẳng chào hỏi, chúng tôi bắt tay vào việc. Tôi tiếp tục đắp bờ mương ngăn đất trồng rau với cái tum đổ nước vào sông Dakbla, còn Lê lo chỉ việc cho chú ấy.

  • QUỲNH VÂN"Lục bình vừa trôi vừa trổ bôngLục bình không kịp dừng để tím..."

  • TRÚC PHƯƠNGÔng già ngồi trên chiếc ghế bố làm bằng manh bao phía dưới bóng cây đa lão – trụ sở của Hội những người bán máu kia, sinh năm 1919, tròn 82 tuổi.

  • NGUYỄN THỊ THÁI Ngoài vườn có tiếng đánh sạt. Lại một chiếc tàu cau rơi. Con Vàng buồn bã đứng dậy, thất thểu đi ra. Hình như tiếng rơi khiến nó đau lòng.

  • HÀ KHÁNH LINH "Con gái PhổỞ lỗ trèo cau"

  • TÔ VĨNH HÀChỉ còn ít phút nữa, cái công việc căng thẳng, vừa đơn điệu vừa nặng nề của chúng tôi sẽ kết thúc: Buổi chấm thi sau cùng của một mùa tuyển sinh đầy sóng gió…

  • TRẦN DUY PHIÊN - Cắp vở qua bên chú Kỳ nhờ chú chỉ cho mà học! - Mẹ tôi nói. Tôi vẫn giả bộ không nghe. Những con tò he bằng đất do tôi nặn lấy chưa khô. Tôi mà bỏ đi có người phá - Nói thế mà không thủng tai ư? - Mẹ đảo mắt tìm một vật gì đó làm roi.

  • HOÀNG THÁI SƠN Dì Ty khép cửa rồi ngồi vào góc giường lôi tiền dưới gối ra đếm. Hai tờ hai mươi ngàn, một mới, một cũ gấp đôi gần đứt rời; hai tờ mười ngàn, một mới, một cũ dính vẩy cá; một tờ năm ngàn quăn góc; hai tờ một ngàn dính mực và âm ẩm. Sáu mươi bảy ngàn cả thảy. Đếm lần nữa: sáu mươi bảy ngàn. Rồi dì mở rương, xếp tiền vào từng ô.

  • NGUYỄN THANH VĂN"Làm sao em biết bia đá không đau…"

  • PHẠM NGỌC TUÝTất cả chỉ vì con nhỏ đó: Nó tên thật là gì, tôi không rõ. Tú gọi nó là nhỏ Mai, nó gầy và xinh. Nói rằng nó xinh, e chưa đủ. Nó ngầu, nó phá, nó là con bé nghịch như quỷ.