Ngâm thơ và đọc thơ

10:24 15/09/2009
MÃ GIANG LÂNCách nhân bản thơ, xuất bản thơ bằng "công nghệ sạch" của loài người có từ ngày xửa ngày xưa dưới hình thức ngâm thơ và đọc thơ. Người Việt chúng ta ngâm thơ là truyền thống. Tiếng Việt nhiều thanh, giàu tính nhạc, giọng ngâm có sức vang, sức truyền cảm.

Những bài thơ thích hợp với giọng ngâm là những bài thơ thuộc dạng cách luật dân tộc: lục bát, song thất lục bát, 7 chữ, 5 chữ... Hình thức ngâm thơ đến nay vẫn được nhiều người yêu thích. Người nghe có khi "lịm đi" theo giọng trầm bổng của nghệ sĩ. Ngâm thơ, người nghệ sĩ hoàn toàn chủ động theo sự cảm nhận chủ quan về cảm xúc ý nghĩa của bài thơ, câu thơ. Có thể dựa vào giọng ngâm sẵn có: "giọng ngâm Kiều", "giọng ngâm thơ Đường", có thể biến tấu từ những làn điệu dân ca như cò lả, sa mạc. Nghệ sĩ khi đó trở thành người "hát thơ". Những năm 60 thế kỷ trước, ngâm thơ là một tiết mục, một loại hình có vị trí quan trọng trong đời sống nghệ thuật và xã hội. Giọng ngâm có sự bổ trợ đắc lực "lợi hại" của âm thanh nhạc cu: tiếng sáo, tiếng đàn, dàn nhạc. Có người ngâm thơ chỉ chú ý đến nhả tiếng, xuống trầm lên bổng, thu hút người nghe vào giọng ngâm và thủ pháp luyến láy của mình hơn là cái thần thái, cái "hồn" của bài thơ. Người nghe thơ chỉ còn cảm được cái tình của giọng ngâm mà ít khi hiểu được cái sự, cái nội dung đích thực của bài thơ. Vì thế, có khi một bài thơ "thường thường bậc trung" nhưng được ngâm với một giọng tốt, luyến láy điệu nghệ lại hấp dẫn hơn nhiều bài thơ khác. Khi nghe ngâm thơ như thế, khó mà phân biệt được thơ hay, thơ dở.

Ở phương Tây không ngâm thơ, mà chỉ đọc thơ, đọc diễn cảm, có khi lên giọng xuống giọng theo ngữ điệu âm thanh của ngôn ngữ. Đọc thơ, trước đám đông, ngoài việc chuyển tải nội dung, còn được nhân lên bằng chiều kích của nhiệt tình, tạo không khí sôi nổi, lôi cuốn người nghe. Nhà thơ lúc này thể hiện trọn vẹn con người hành động và con người nghệ sĩ, tài năng và thi hứng. Chúng ta đã nghe nhiều về nhà thơ Nga, Maiacôpxki - nhà thơ lớn của thế kỷ XX, nhà thơ có sức sáng tạo mãnh liệt và mê hoặc người nghe bằng giọng đọc thơ hùng hồn, sang sảng ở các cuộc họp, ở đường phố, quảng trường đến mức "đứt cả đường gân thớ thịt ở họng". Trong một cuộc mít-ting, không khí náo nhiệt, Maiacôpxki đã đọc một sáng tác tiêu biều của mình: Hành khúc trái! (1918). Lời thơ trực tiếp đến thẳng trái tim quần chúng, tạo một hiệu lực, cộng hưởng lớn chưa từng có trong lịch sử thơ ca:

Chống đau thương
đói khát, rã rời
trăm vạn chân người bước mạnh
Mặc bọn cướp địch thù vây đánh
mặc trận mưa thép lỏng xối dầu
nước Nga không chịu Khối hiệp ước đâu,
Trái!
Trái!
Trái!
      (Bản dịch của Hoàng Ngọc Hiến)

Tiếng thơ sôi động, hùng dũng vang dội khắp quảng trường. Cả quảng trường gào lên lặp lại: " Nước Nga không chịu Khối hiệp ước đâu. Trái! Trái! Trái! ".

Nhà thơ Xuân Diệu kể lại: Những ngày kháng chiến chống thực dân Pháp, trong một buổi họp, trên nhà sàn, quanh bếp lửa với đồng bào miền núi, xen vào đó là người hát, người đọc thơ. Buổi họp tan, mọi người tản về những xóm nhà sàn rải rác ven núi. Anh bạn đọc thơ vừa chợp mắt ngủ thì thấy một ánh đuốc... Một chị Thổ ở bên nhà sàn hội họp ban nãy cầm đuốc sang. Chị quơ ánh đuốc tìm trên các mặt người đã nằm ngủ, nhận ra người đọc thơ, chị lay chân gọi và mời "cái người đọc thơ ban nãy" trở sang bên nhà. Anh đi một cây số tới nơi, thì thấy cả gia đình ông cụ Thổ đang ngồi đó chưa ngủ. Mấy nhà sàn bên cạnh cũng đã kéo sang, mười mấy người ngồi quanh lại đợi chờ. Thì ra họ rất thích những bài thơ anh đọc ban nãy, họ mời anh đến để nghe nữa.
(Triều lên. NXB Hội nhà văn. H, 1957 trang 44 - 45)

Có lẽ, ở ta, Xuân Diệu là người nói chuyện, đọc thơ nhiều nhất: gần 500 buổi. Ông đã đến nhiều vùng đất nước từ địa đầu Đồng Văn đến chót Mũi Cà Mau để làm thơ và đọc thơ trước công chúng. Ông không từ chối một buổi nói chuyện, đọc thơ nào, kể cả khi không có xe đưa đón. Các thầy giáo đèo ông bằng xe đạp, hoặc lội bùn đẩy xuồng cho ông như ở Nam Bộ. Trong những năm chiến tranh chống Mỹ, một lần ông đến nói chuyện thơ ở một trường đại học tại nơi sơ tán. Trên một sườn đồi thoai thoải trung du, đêm trăng, hàng nghìn thầy giáo cô giáo, sinh viên và nhân dân trong vùng kéo đến nghe thơ. Ông đang đọc thơ say sưa hào hứng thì bỗng micrô hỏng, chữa mãi không được, mọi người vẫn im lặng chờ đợi. Nhà thơ khum hai bàn tay đưa lên miệng tiếp tục đọc thơ. Một người nào đó nhanh trí chạy tìm được một cái loa sắt. Bằng cái loa này, nhà thơ đã đọc hùng hồn trọn vẹn mấy bài thơ. Trong tiếng vỗ tay kéo dài của người nghe, nhà thơ Xuân Diệu chắp hai tay, cúi gập người vái 3 vái, cám ơn sự nồng nhiệt của quần chúng yêu thơ.

Đọc thơ mới hợp với tinh thần khí thế chống Mỹ. Hai giọng đọc thơ khá quen thuộc với chúng ta lúc đó là Văn Thành và Phạm Thành. Văn Thành được hoan nghênh với giọng đọc thơ hào hùng sảng khoái các bài: Êmily, con..., Hãy nhớ lấy lời tôi của Tố Hữu, Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng, Cái hầm chông giản dị, Sao chiến thắng của Chế Lan Viên. Phạm Thành gây ấn tượng bằng giọng đọc thơ ấm, vang, luôn tôn trọng nội dung tình cảm ý tứ các bài thơ Bài ca mùa xuân 1961 của Tố Hữu, Niềm tự hào của Huy Cận..

Mấy năm gần đây, ở Pháp và một số nước khác châu Âu lại rộ lên và thường xuyên tổ chức những cuộc hội thảo về Thơ âm thanh. Các nhà thơ sử dụng những phương tiện kỹ thuật hiện đại cho việc sáng tác và đọc thơ của mình trước công chúng, nhất là với giới trẻ thích cuộc sống phóng khoáng, sống động. Nhà thơ, ngoài năng khiếu sáng tạo thơ, còn là những người có giọng khỏe, truyền cảm, có sức hút mạnh. Những phương tiện kỹ thuật như micrô, máy ghi âm, kể cả internet được dùng để đọc thơ trước công chúng. Đối với thơ âm thanh việc in ấn không còn quan trọng mà thay vào đó là đĩa từ, băng video, CD-Rom, kỹ thuật phát thanh, kỹ thuật đọc kèm các động tác thân thể, tức là các yếu tố phi ngôn ngữ như nét mặt, cử chỉ, dáng điệu... Chính các yếu tố này có tác dụng tích cực trong việc chuyển tải ý tưởng nhà thơ một cách trực tiếp hơn. Công chúng yêu thơ lĩnh hội thơ ở cả hai kênh: nghe nhìn.

Vậy thì, từ ngâm thơ đến đọc thơ là một cách tân trong quá trình trình diễn thơ. Xu hướng đọc thơ gia tăng và hầu như phủ khắp nhân loại. Đọc thơ là hình thức trình diễn thơ có nhiều ưu thế hơn.

Thơ để ngâm phải có giọng điệu thích hợp: giọng tâm tình, riêng tư dễ được chấp nhận. Người nghe nhiều khi quên hết câu chữ mà rung cảm theo giọng ngâm mượt mà, theo tiếng đàn, tiếng sáo. Lời thơ được chắp cành bay lượn. Xung quanh nghệ sĩ ngâm thơ là hàng rào nhạc công. Người ngâm và người thưởng thức luôn giữ một khoảng cách.

Thơ để đọc, ngôn ngữ có thể phóng túng, tự do, giọng trầm hùng âm vang, có khi giục giã thôi thúc. Trước đám đông, trên quảng trường, đường phố, không khí hội hè sôi động, ồn ào, thì đọc thơ là đắc địa nhất. Nhà thơ tự thân, có thể ứng tác, một mình tung hoành với tiếng nói trực tiếp từ trái tim mình đễn thẳng công chúng. Lời thơ, ý thơ không bị khúc xạ qua tiếng đệm đàn, sáo và tình cảm chủ quan của nghệ sĩ ngâm thơ. Người đọc thơ hòa với mọi người trong một môi trường sống.

Đọc thơ, tự đọc hay người khác đọc, nhà thơ mới giữ được hồn cốt đứa con tinh thần của mình.

M.G.L
(187/09-04)




 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TRẦN ĐÌNH SỬLí luận văn học Việt Nam thế kỉ XX đã trải qua ba lần thay đổi hệ hình tư duy. Lần thứ nhất diễn ra vào những năm 1932 đến 1945 với việc hình thành quan niệm văn học biểu hiện con người, xã hội, lấy thẩm mĩ làm nguyên tắc, chống lại quan niệm văn học thời trung đại lấy tải đạo, giáo huấn, học thuật làm chính tông, mở ra một thời đại mới trong văn học dân tộc.

  • HỒ THẾ HÀĐà Linh - Cây bút truyện ngắn quen thuộc của bạn đọc cả nước, đặc biệt, của Đà Nẵng với các tác phẩm Giấc mơ của dòng sông (1998), Nàng Kim Chi sáu ngón (1992),Truyện của Người (1992) và gần đây nhất là Vĩnh biệt cây Vông Đồng (1997). Bên cạnh ấy, Đà Linh còn viết biên khảo văn hoá, địa chí và biên dịch.

  • NGÔ MINHBữa nay, người làm thơ đông không nhớ hết. Cả nước ta mỗi năm có tới gần ngàn tập thơ được xuất bản. Mỗi ngày trên hàng trăm tờ báo Trung ương, địa phương đều có in thơ. Nhưng, tôi đọc thấy đa phần thơ ta cứ na ná giống nhau, vần vè dễ dãi, rậm lời mà thiếu ý.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ     Ba công trình dày dặn nghiên cứu về Chủ tịch Hồ Chí Minh của cùng một tác giả, cùng được xuất bản trong năm 2005 kể cũng đáng gọi là "hiện tượng" trong ngành xuất bản. Ba công trình đó là "Hồ Chí Minh - danh nhân văn hóa" (NXB Văn hóa Thông tin, 315 trang), "Hồ Chí Minh - một nhân cách lớn" (NXB Văn hóa thông tin, 510 trang) và "Đạo Khổng trong văn Bác Hồ" (NXB Đại học quốc gia Hà Nội, 375 trang).

  • PHAN CÔNG TUYÊNLTS: Cuộc thi tìm hiểu “60 năm Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam” do Ban Tư tưởng - Văn hoá trung ương, website Đảng Cộng sản Việt Nam phối hợp với Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia phát động trong cả nước. Tại Thừa Thiên Huế, cuộc thi được phát động từ ngày 7/5/2005 đến ngày 10/7/2005; Ban tổ chức cuộc thi đã nhận được 160.840 bài dự thi của rất nhiều tầng lớp nhân dân, nhiều thành phần trong xã hội tham gia. Điều này chứng tỏ cuộc thi mang nhiều sức hấp dẫn. Sông Hương xin trích đăng báo cáo tổng kết cuộc thi của đồng chí Phan Công Tuyên, UVTV, Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ, Trưởng Ban tổ chức cuộc thi tại Thừa Thiên Huế.

  • TRẦN THỊ THANHTừ Hán Việt là một lớp từ khá quan trọng trong ngôn ngữ tiếng Việt của người Việt Nam. Với con số 60% - 70% từ Hán Việt có trong tiếng Việt, nó đã và đang đặt ra một nhiệm vụ cấp thiết làm thế nào để cho mọi người dân Việt Nam, đặc biệt là tầng lớp thanh, thiếu niên viết và nói đúng tiếng Việt trong đó có từ Hán Việt.

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂN LTS: Bài dưới đây là tham luận của nhà văn Nguyễn Đắc Xuân đọc trong Hội nghị Lý luận phê bình văn học nghệ thuật trung ương, tháng 12-2008. Tác giả có những nhận định khá mới mẻ, những đề xuất khá hợp lý và khá mạnh dạn, tất nhiên bài viết sẽ không tránh phần chủ quan trong góc nhìn và quan điểm riêng của tác giả. Chúng tôi đăng tải gần như nguyên văn và rất mong nhận được những ý kiến phản hồi, trao đổi, thạm chí tranh luận của bạn đọc để rộng đường dư luận.S.H

  • MAI HOÀNGCẩm cù không nổi tiếng bằng một số truyện ngắn khác của Y Ban như Thư gửi mẹ Âu cơ, I am đàn bà, Đàn bà xấu thì không có quà… Không có những vấn đề hot như sex, nạo phá thai, ngoại tình… tóm lại là những sự vụ liên quan đến “chị em nhà Eva”.

  • INRASARATham luận tại Hội thảo “Nhà văn với sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước”, Hội Nhà văn Việt Nam, Đồng Nai, 8-1-2009.

  • HOÀNG NGỌC HIẾNWallace Stevens ví hành trình của những nghệ sĩ Tiên phong (hoặc Tiền vệ) của chủ nghĩa hiện đại những thập kỷ đầu thế kỷ XX như những cuộc phiêu lưu của những nhà thám hiểm núi lửa, họ đã đến núi lửa, “đã gửi về tấm bưu ảnh cuối cùng” và lúc này không có ước vọng gì hơn là trở về nhà.

  • TRẦN HOÀI ANH1. Nhà thơ - Người đọc: Niềm khắc khoải tri âmKhi nói về mối quan hệ giữa nhà thơ và độc giả, Edward Hirsch đã viết: “Nhiều nhà thơ đã nắm lấy ý Kinh Thánh Tân Ước “Khởi thuỷ là lời”, nhưng tôi thích ý kiến của Martin Buber trong “Tôi và bạn” hơn rằng: “Khởi thuỷ là những mối quan hệ” (1).

  • VIỆT HÙNGCông tác lý luận phê bình văn học nghệ thuật đang là mối quan tâm lo lắng của giới chuyên môn, cũng như của đại đa số công chúng, những người yêu văn học nghệ thuật. Tình trạng phê bình chưa theo kịp sáng tạo, chưa gây được kích thích cho sáng tạo vẫn còn là phổ biến; thậm chí nhiều khi hoặc làm nhụt ý chí của người sáng tạo, hoặc đề cao thái quá những tác phẩm nghệ thuật rất ư bình thường, gây sự hiểu nhầm cho công chúng.

  • HẢI TRUNGVũ Duy Thanh (1811 - 1863) quê ở xã Kim Bồng, huyện An Khánh, tỉnh Ninh Bình là bảng nhãn đỗ đầu trong khoa thi Chế khoa Bác học Hoành tài năm Tự Đức thứ tư (1851). Người đương thời thường gọi ông là Bảng Bồng, hay là Trạng Bồng.

  • NGUYỄN SƠNTrên tuần báo Người Hà Nội số 35, ra ngày 01-9-2001, bạn viết Lê Quý Kỳ tỏ ý khiêm nhường khi lạm bàn một vấn đề lý luận cực khó Thử bàn về cái tôi trong văn học. Anh mới chỉ "thử bàn" thôi chứ chưa bàn thật, thảo nào!... Sau khi suy đi tính lại, anh chỉnh lý tí tẹo tiêu đề bài báo thành Bàn về "cái tôi"trong văn học và thêm phần "lạc khoản": Vinh 12-2001, rồi chuyển in trên Tạp chí Văn (Hội Nhà văn Thành phố Hồ Chí Minh), số 4 (Bộ mới, tháng 3-4)-2002. Trong bài trao đổi này chúng tôi trích dẫn căn cứ theo nguyên văn bài báo đã in lần đầu (và về cơ bản không khác với khi đưa in lại).

  • TRƯƠNG ĐĂNG DUNGCùng với sự phát triển của một thế kỉ văn học dân tộc, lí luận văn học ở Việt Nam cũng đã có những thành tựu, khẳng định sự trưởng thành của tư duy lí luận văn học hiện đại.

  • NGUYỄN NGỌC THIỆNTrong vài ba thập niên đầu thế kỷ XX, trung xu thế tìm đường hiện đại hóa văn xuôi chữ quốc ngữ, các thể tài tiểu thuyết, phóng sự được một số nhà văn dụng bút thể nghiệm.

  • L.T.S: Trong ba ngày từ 03 đến 05 tháng 5 năm 2005, tại thành phố Huế đã diễn ra hoạt động khoa học quốc tế có ý nghĩa: Hội thảo khoa học Tác phẩm của F. Jullien với độc giả Việt Nam do Đại học Huế và Đại học Chales- de-Gaulle, Lille 3 tổ chức, cùng sự phối hợp của Đại sứ quán Pháp ở Việt Nam và Agence Universitaire  francophone (AUF). Hội thảo có 30 tham luận của nhiều giáo sư, học giả, nhà nghiên cứu Việt Nam, Pháp, Nhật Bản, Hàn Quốc.

  • NGUYÊN NGỌC1- Trong các tác phẩm của F. Jullien đã được giới thiệu ở Việt , tới nay đã được đến mười quyển, tôi chỉ dịch có một cuốn “Một bậc minh triết thì vô ý” (Un sage est sans idée). Tôi dịch cuốn này là theo gợi ý của anh Hoàng Ngọc Hiến. Khi in, cũng theo đề nghị của anh Hiến và của nhà xuất bản, cuốn sách đã được đổi tên ở ngoài bìa là “Minh triết phương Đông và triết học phương Tây”, các anh bảo như vậy “sẽ dễ bán hơn” (!).

  • ĐÀO HÙNGTrước khi dịch cuốn Bàn về chữ Thời (Du temps-éléments d′une philosophie du vivre),  tôi đã có dịp gặp François Jullien, được nghe ông trình bày những vấn đề nghiên cứu triết học Trung Hoa của ông và trao đổi về việc ứng dụng của triết học trong công việc thực tế. Nhưng lúc bấy giờ thời gian không cho phép tìm hiểu kỹ hơn, nên có nhiều điều chưa cảm thụ được hết.

  • NGUYỄN VĂN DÂNTheo định nghĩa chung, xã hội học là khoa học nghiên cứu về các sự việc mang tính chất xã hội. Mặc dù cội nguồn của nó phải kể từ thời Aristote của Hy Lạp, nhưng với tư cách là một ngành khoa học, thì xã hội học vẫn là một bộ môn khoa học khá mới mẻ. Ngay cả tên gọi của nó cũng phải đến năm 1836 mới được nhà triết học người Pháp Auguste Comte đặt ra.