Nàng thơ và cuộc sống

08:35 06/12/2022

NGUYỄN KHẮC THẠCH

Thơ, Nàng thơ và Thi sĩ là điệp khúc tình yêu muôn thuở giữa 3 ngôi Trao-Nhận-Trả mà đấng hóa công đã ban tặng con người.

Tranh của Lê Phổ - Ảnh: internet

Con số "bộ ba" ấy tương ứng với mối tương quan màu nhiệm Thiên chúa ba ngôi (Cha - Con - Thánh Thần) trong Ki tô giáo hoặc Tam bảo (Phật - Pháp - Tăng) trong Phật giáo hay Tam tài (Thiên - Địa - Nhân) trong Kinh Dịch.

Nàng thơ chính là nguồn cảm xúc trinh nguyên, kì bí của Thi sĩ. Đó là cuộc ngẫu hôn đại ngộ cho đứa Con - Thơ - Tác Phẩm ra đời. Trong mối quan hệ "tay ba" này, thi sĩ bao giờ cũng đóng vai trò "khổ chủ”. Có thể có những khoảnh khắc của thực tại nào đấy, Thi sĩ sẽ cảm thấy như mình đồng nhất với Thơ và Nàng thơ, như hoà tan vào nhau trong một tâm trạng kỳ lạ bất sai biệt.

Nàng thơ là ai? Nàng từ đâu đến? Nàng đến với ai? Nàng vừa hư, vừa thực, vừa thiên thần vừa ác quỷ, vừa là nàng vừa không phải là nàng. Thế nhưng hầu như Thi sĩ nào cũng vậy, bên đời thơ của họ đều lấp ló một gương mặt Nàng thơ cụ thể. Cái cụ thể ấy, đôi khi, dấu ấn của nó cũng đậm bi lụy như một quan hệ của "cơ chế bạc mệnh". Trường hợp giữa Natalia và Puskin là một điển chứng. Natalia là con gái của dòng họ Gôntsarốp, nổi tiếng về nhan sắc tuyệt vời khiến cho người đương thời phải thán phục và cũng không thể không có những kẻ hờn ghen rắp tâm mưu hại. Phải chăng vì Nàng thơ mà Puskin đã phải trải qua nhiều lần đấu súng (27 lần trong đời ông) và cuối cùng phải lãnh cái chết để bảo vệ danh dự cho Nàng? Những bài thơ tình kiệt tác của Puskin dù bắt nguồn từ một cảm xúc nào, từ một địa chỉ nào ngoài Natalia hoặc trước đó là Elidaveta thì nó vẫn có một cái tên chung "Nàng thơ". Nàng thơ càng mong manh bao nhiêu với Thi sĩ thì nó càng làm cho tác phẩm thơ mang khát vọng vĩnh cửu bấy nhiêu. Natalia đến với Puskin trong tư cách song đôi vừa là vợ, vừa là Nàng thơ - một tư cách thật hi hữu. Nhưng có lẽ đó cũng là cái nút bi kịch với nhà thơ nói riêng và thi ca nói chung. Sau khi Puskin qua đời Natalia sống trong cô đơn, hờn tủi và đầy miệng tiếng. Người ta chỉ biết về Natalia như một con búp bê xinh đẹp, vô hồn, vô dụng buộc Puskin phải vắt kiệt sức mình làm lụng, kiếm tiền để phục dịch cho vợ. Cũng có những nhà thơ tài năng như Xvesaxva hoặc Akhmatova đầy mặc cảm, cay nghiệt miệt thị Natalia là đồ "nữ yêu Puskin" trong một số bài thơ của họ. Năm 1973, người ta tìm thấy 7 bức thư của Natalia (viết năm 1836) gửi cho anh em của mình xin tiền để giúp chồng vượt qua thiếu thốn, kham khổ và bận bịu bởi sự câu thúc cơm áo. Nhờ những bức thư đó, người ta đã giải oan cho nàng. Chính Puskin đã thổi linh hồn vào con "búp bê", Nàng thơ xấu số của mình. Còn Nàng thơ thì đã làm cho Puskin mụ đi không hề ý thức được sự thiên tài của mình.

Quan hệ giữa Thi sĩ và Nàng thơ và Thơ là quan hệ "tam hợp" của nhân duyên hội tụ. Nó từ một ra ba và tuy ba nhưng là một. Bởi thế, khi đối diện với Nàng thơ, không phải tâm hồn nào cũng trở nên thi sĩ. Mặc dù, về phương diện mỹ học, theo trường phái Kant thì cái đẹp không có trong sự vật, nó là tự thân của chủ thể "cái đẹp không ở trên đôi má hồng thiếu nữ mà nằm trong đôi mắt của kẻ si tình" nhưng gặp Hegel thì nó được đảo ngược lại. Chắc ở đây chân lý thuộc về Hegel, cái đẹp tồn tại trong sự vật nhưng phải thông qua ý niệm của con người. Lẽ vậy, cái đẹp sẽ uổng phí biết bao nếu không được một lần hội ngộ...

Điều này, câu chuyện về Abutalip và nàng Khatimat vẫn còn đấy như một "điển cố hiện tiền". Sau khi rời bỏ nghề chăn cừu tẻ nhạt, Abutalip chuyển sang nghề hàn thiếc và có cơ hội đi đây đi đó. Tại một làng nọ, ông gặp một cô gái xinh đẹp có tên là Khatimat mang chiếc bình hỏng đến chữa. Ông đã phải lòng cô gái ngay từ buổi đầu gặp gỡ ấy rồi khao khát yêu đương và "càng uống càng khát" trong mối tình đơn phương, vô vọng. Sự kiện ấy diễn ra như một biến cố tâm linh trong đời Abutalip. Còn cô gái xinh đẹp dường như chê chàng hàn thiếc nghèo hèn và lấy người khác, rồi một người khác nữa làm chồng. Abutalip nhớ nàng, khổ đau nung nấu thành thơ, thành nhiều thơ. Có thể nói, nhờ sự phụ bạc của Khatimat mà Abutalip nổi tiếng về thơ rồi về hoạt động xã hội, rồi về cả những câu bất hủ: "Nếu anh bắn vào quá khứ bằng súng lục thì tương lai sẽ bắn vào anh bằng đại bác". Sau này, khi gặp lại nhà thơ, Khatimat có ý kể công "Nếu ngày ấy không có tôi đem bình đến cho ông chữa, thì bây giờ ông vẫn còn là ông thợ hàn thiếc ngồi ngoài chợ!". Abutalip vặn lại "Nếu quả thật quyền lực của chị nhiều đến thế, chị Khatimat ạ, thì tại sao chị không biến anh chồng thứ nhất rồi thứ hai của mình thành nhà thơ?".

Quả vậy, Abutalip đã nói đúng, không ai có đủ quyền lực, đủ khả năng biến người này hoặc người nọ thành nhà thơ nếu người đó không có tài, không tự mình trở thành nhà thơ.

Như trên đã đề cập, Nàng thơ nói chung là nguồn cảm hứng sáng tạo cho người thơ, nó không phân biệt đối tượng, giới tính. Do đó, có khi chính "Nàng" lại ở phái mày râu. Bài "Hai sắc hoa ti gôn" nổi tiếng của TTKH chẳng phải là cảm xúc từ một "Nàng thơ male" đó sao? Nhưng theo cách hiểu nôm na, thông thường thì nàng thơ vẫn được coi là độc quyền riêng của phái đẹp.

Thời chúng ta, thời ra ngõ gặp người đẹp, vào quán đụng nhà thơ mà sao quá hiếm hoi những bài thơ tình hay, chưa nói là thơ tình kiệt tác? Ôi! Phải chăng, nàng thơ đã chết? Không! Nàng thơ không chết. Nàng vẫn ẩn náu đâu đó trong mỗi chúng ta. Cuộc sống không có nàng thơ thì nó chẳng có ý nghĩa gì nữa. Người đẹp chưa hẳn đã là Nàng thơ. Người đẹp là thực còn Nàng thơ thì ảo. Người đẹp là cái đẹp vật chất, cái đẹp của cuộc sống. Nàng thơ là cái đẹp tinh thần, cái đẹp của nghệ thuật. Cái đẹp nghệ thuật bao giờ cũng cao hơn cái đẹp cuộc sống. Chính vì vậy, cuộc sống mới cần nghệ thuật và cũng chính vì vậy mà nghệ thuật không thể tồn tại với tư cách là sao chép cuộc sống. Điều này, họa sĩ nổi tiếng Pháp Phan-cô-nê đã nói thẳng thừng: "Nếu chỉ làm việc sao chép thì giữa sự vật và tác phẩm sẽ có một cái thừa". Nghệ thuật là niềm khát khao sáng tạo muôn đời của cuộc sống. Mặt nào đó, nghệ thuật cùng có cội rễ với tôn giáo, chúng đều bừng nở trong tuệ giác. Bởi vậy, những công trình nghệ thuật đầu tiên của loài người đều mang tính tôn giáo huyền bí, kỳ vĩ. Nàng thơ được coi như sợi dây chuyền sáng thế từ nghệ sĩ ra tác phẩm. Nàng thơ không chỉ đứng trong cái đẹp mà đứng trong cả sự đổ vỡ của cái đẹp. Nàng bênh vực nước mắt, nàng bênh vực nỗi buồn. Nàng thơ dị ứng với cuộc sống thực dụng, xa hoa, ích kỷ và giả trá nên nàng đang bị xua đuổi dần trước môi trường ngày càng một ô nhiễm sự giàu sang ô trọc.

Con người đã đưa ra những tiêu chí để khu biệt ranh giới giữa mình với loài vật như công cụ lao động, ngôn ngữ, sinh vật chính trị... nhưng xét cho cùng, những tiêu chí đó cũng là bản lề cho cả hai phía - hiểu theo một cách nào đó. Vậy cái đặc trưng để phân biệt giữa con người với loài vật, nếu cần người ta cũng có thể tính đến nhân tố Nàng thơ. Con người cần có Nàng thơ. Loài vật không cần Nàng thơ. Chính nhờ Nàng thơ mà con người sáng tạo ra nghệ thuật, sáng tạo ra một thế giới lý tưởng riêng cho mình khác với thế giới đang sống chung cùng loài vật. Hiểu theo nghĩa rộng thì Nàng thơ, đó là cuộc sống, là chất xúc tác để hoàn thiện nhân cách, là thước đo về tư chất và phẩm giá con người.

N.K.T
(TCSH84/02-1996)

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • LTS: Marcel Reich-Ranicki, sinh năm 1920, người ở Đức được mệnh danh là "Giáo hoàng văn học", là nhà phê bình văn học đương đại quan trọng nhất của CHLB Đức. "Một lời biện hộ cho thơ" là bài thuyết trình đọc vào ngày 30.11.1980 nhân dịp ra mắt Tập 5 của "Tuyển thơ Frankfurt" trong khuôn khổ chuyên mục thơ của nhật báo "Frankfurter Allgemeine Zeitung" (FAZ) mà tác giả là chủ biên phần văn học từ 1973 đến 1988.Sông Hương xin trân trọng giới thiệu bài "Một lời biện hộ cho thơ" của ông sau đây do dịch giả Trương Hồng Quang thực hiện.

  • TRẦN HUYỀN SÂMGeorge Sand (1804-1876) là một gương mặt độc đáo trên văn đàn Pháp thế kỷ XIX. Cùng thời với những cây bút nổi tiếng như: A.Lamartine, V.Hugo, A.Vigny, A.Musset... nữ sĩ vẫn tạo cho mình một tầm vóc riêng không chìm khuất. George Sand bước vào thế giới nghệ thuật bằng một thái độ tự tin và một khát vọng sáng tạo mãnh liệt. Với hơn hai mươi cuốn tiểu thuyết đồ sộ, G.Sand đã trở thành một tên tuổi lừng danh ngay từ đương thời. Dĩ nhiên, bà lừng danh còn bởi nhiều mối tình bất tử, trong đó có nhà thơ Pháp nổi tiếng A.Musset và nhạc sĩ thiên tài Chopin người Ba Lan.

  • PHẠM QUANG TRUNGCó lần, dăm ba người có thiên hướng lý luận chúng tôi gặp nhau, một câu hỏi có thể nói là quan thiết được nêu ra: trong quan niệm văn chương, e ngại nhất là thiên hướng nào? Rất mừng là ý kiến khá thống nhất, tuy phải trải qua tranh biện, không đến nỗi quyết liệt, cũng không phải hoàn toàn xuôi chiều hẳn. Có lẽ thế mới hay!

  • NGUYỄN HỮU HỒNG MINH1- "Thơ trẻ- Những giá trị mới" là một "mưu mô" của nhà phê bình trẻ Nguyễn Thanh Sơn và nhóm "Văn nghệ mới" (bao gồm Nguyễn Hữu Hồng Minh, Văn Cầm Hải, Phan Huyền Thư, Ly Hoàng Ly, Nguyễn Vĩnh Tiến, Dạ Thảo Phương... và một số người khác) dự tính tập hợp, tuyển chọn 1 tuyển thơ của 10 (hay nhiều hơn) tác giả trẻ từ 30 tuổi trở xuống, xuất hiện trong vòng 3 năm cuối cùng của thế kỉ để trình làng giới thiệu chân dung thế hệ mình.

  • NGUYỄN HOÀN Trịnh Công Sơn là một hiện tượng độc đáo của âm nhạc và văn hoá Việt Nam được ái mộ không chỉ ở trong nước mà cả ở nước ngoài. Vì thế mà từ khi ông qua đời đến nay đã có trên chục đầu sách viết về ông, một số lượng hiếm thấy đối với các nhạc sĩ khác. Gần đây có cuốn “Trịnh Công Sơn vết chân dã tràng” của Ban Mai do Nhà xuất bản Lao Động, Trung tâm Văn hoá Ngôn ngữ Đông Tây xuất bản, Hà Nội, 2008. Với niềm ngưỡng mộ tài hoa và nhân cách nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, tôi đã hăm hở tìm đọc cuốn sách mới này nhưng tiếc thay, chưa kịp trọn nỗi mừng đã phải thất vọng về những trang viết đánh giá đầy sai lệch và thiếu sót, phiến diện về Trịnh Công Sơn và chiến tranh Việt Nam.

  • HOÀNG QUỐC HẢIThơ Lý - Trần có mạch nguồn từ Đinh - Lê, nếu không muốn nói trước nữa. Rất tiếc, nguồn tư liệu còn lại cho chúng ta khảo cứu quá nghèo nàn.Nghèo nàn, nhưng cũng đủ tạm cho ta soi chiếu lại tư tưởng của tổ tiên ta từ cả ngàn năm trước.

  • NGUYỄN VĂN THUẤN          (Nhóm nghiên cứu - lý luận phê bình trẻ)Thời gian gần đây, tại Việt , các tác phẩm của nhà văn Nhật Bản H.Murakami thường xuyên được dịch và xuất bản. Là một giọng nói hấp dẫn trên văn đàn thế giới, sáng tác của ông thu hút đông đảo công chúng và dành được nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu, phê bình. Một trong những tiểu thuyết làm nên danh tiếng của ông là Rừng Nauy.

  • PHAN TÂMQuê hương Phan Đăng Lưu, xã Hoa Thành, huyện Yên Thành, cách Kim Liên, Nam Đàn, quê hương Hồ Chí Minh khoảng 60 km.Hai nhân cách lớn của đất Nghệ An. Không hẹn mà gặp, xuất phát từ lương tri dân tộc, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, đến chủ nghĩa Mac - Lê nin, thành hai chiến sĩ cộng sản Việt Nam nổi tiếng.

  • THÁI DOÃN HIỂUNhà thơ Võ Văn Trực thuộc loại tài thì vừa phải nhưng tình thì rất lớn. Chính cái chân tình đó đã giúp anh bù đắp được vào năng lực còn hạn chế và mong manh của mình, vươn lên đạt được những thành tựu mới đóng góp cho kho tàng thi ca hiện đại của dân tộc 4 bài thơ xuất sắc: “Chị, Vĩnh viễn từ nay, Thu về một nửa và Nghĩa địa làng, người ta sẽ còn đọc mãi.

  • HÀ  ÁNH MINHBài thứ nhất, Một cuộc đời "Ngậm ngải tìm trầm" của Vương Trí Nhàn, đăng trên tạp chí Diễn đàn văn nghệ Việt Nam số Xuân Canh Thìn năm 2000, và bài thứ hai "Sư phụ Thanh Tịnh làm báo tết" của Ngô Vĩnh Bình, đăng trên báo Văn Nghệ, số Tết cũng năm Canh Thìn 2000. Bài đầu tiên viết dài, giọng văn trau chuốt điệu nghệ. Bài sau ngắn, mộc mạc.

  • LÊ THỊ HƯỜNGDẫu mượn hình thức của thể kí, dẫu tìm đến vần điệu của thơ, điểm nhất quán trong sáng tác của Hoàng Phủ Ngọc Tường là một cái tôi say đắm thiên nhiên. Đằng sau những tài hoa câu chữ là một cái tôi đa cảm - quá chừng là đa cảm - luôn dành cho cỏ dại những tình cảm lớn lao.  

  • BỬU NAM1. Nếu văn xuôi hư cấu (đặc biệt là tiểu thuyết) chiếm vị trí hàng đầu trong bức tranh thể loại của văn học Mỹ - La tinh nửa sau thế kỷ XX, thì thơ ca của lục địa này ở cùng thời gian cũng phát triển phong phú và rực rỡ không kém, nó tiếp tục đà cách tân và những tìm tòi đổi mới của những nhà thơ lớn ở những năm 30 - 40.

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP1. Khi chạm vào cơn lốc và những điệu rock thơ mang tên Vi Thuỳ Linh, bất chợt tôi nhớ đến câu thơ dịu dàng và sâu thẳm của Paul Eluard: Trái đất màu xanh như một quả cam. Với P. Eluard, tình yêu là một thế giới tinh khiết, rạng rỡ và ngọt ngào: Đến mức tưởng em khỏa thân trước mặt. Còn Vi Thuỳ Linh, nếu ai hỏi thế giới màu gì, tôi đồ rằng nàng Vi sẽ trả lời tắp lự: Màu yêu.

  • HÀ VĂN LƯỠNG1. Cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại của nhân dân Xô Viết là một bản anh hùng ca bất tử của dân tộc Nga trong thế kỷ XX (1941-1945). Nó mãi mãi đi vào lịch sử vẻ vang và oanh liệt, không chỉ của đất nước Xô Viết mà còn cả với nhân loại tiến bộ yêu chuộng hòa bình trên thế giới, khẳng định bản chất tốt đẹp và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của con ngưòi Xô Viết.

  • LƯƠNG THỰC THULTS: Lương Thực Thu, sinh năm 1903 tại Bắc Kinh, thời nhỏ học ở trường Thanh Hoa. Năm 1923 du học tại Mỹ. Năm 1926 về nước, lần lượt dạy học ở trường Đại học Đông Nam, Đại học Thanh Đảo, Đại học Bắc Kinh, và Đại học Sư phạm Bắc Kinh. Năm 1949 sang ở Đài Loan, chủ yếu giảng dạy ở Đại học Sư phạm Đài Loan. Năm 1966 nghỉ hưu, năm 1987 ốm chết tại Đài Bắc.

  • NGUYỄN XUÂN HOÀNG   (Đọc “Lý luận và văn học”, NXB Trẻ 2005 của GS.TS Lê Ngọc Trà)Ra mắt bạn đọc năm 1990, năm 1991, cuốn sách “Lý luận và văn học” của Giáo sư - Tiến sĩ Lê Ngọc Trà được trao giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam. 15 năm qua, những tưởng một số vấn đề về lý luận văn học mà cuốn sách đề cập đã không còn mới, đã “lạc hậu” so với tiến trình phát triển của văn học. Nhưng không, khi đọc lại cuốn sách được nhà xuất bản Trẻ tái bản lần thứ nhất năm 2005, những vấn đề mà GS.TS Lê Ngọc Trà đề cập vẫn còn nóng hổi và giữ nguyên tính thời sự của nó.

  • TRẦN ĐÌNH SỬLí luận văn học Việt Nam thế kỉ XX đã trải qua ba lần thay đổi hệ hình tư duy. Lần thứ nhất diễn ra vào những năm 1932 đến 1945 với việc hình thành quan niệm văn học biểu hiện con người, xã hội, lấy thẩm mĩ làm nguyên tắc, chống lại quan niệm văn học thời trung đại lấy tải đạo, giáo huấn, học thuật làm chính tông, mở ra một thời đại mới trong văn học dân tộc.

  • HỒ THẾ HÀĐà Linh - Cây bút truyện ngắn quen thuộc của bạn đọc cả nước, đặc biệt, của Đà Nẵng với các tác phẩm Giấc mơ của dòng sông (1998), Nàng Kim Chi sáu ngón (1992),Truyện của Người (1992) và gần đây nhất là Vĩnh biệt cây Vông Đồng (1997). Bên cạnh ấy, Đà Linh còn viết biên khảo văn hoá, địa chí và biên dịch.

  • NGÔ MINHBữa nay, người làm thơ đông không nhớ hết. Cả nước ta mỗi năm có tới gần ngàn tập thơ được xuất bản. Mỗi ngày trên hàng trăm tờ báo Trung ương, địa phương đều có in thơ. Nhưng, tôi đọc thấy đa phần thơ ta cứ na ná giống nhau, vần vè dễ dãi, rậm lời mà thiếu ý.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ     Ba công trình dày dặn nghiên cứu về Chủ tịch Hồ Chí Minh của cùng một tác giả, cùng được xuất bản trong năm 2005 kể cũng đáng gọi là "hiện tượng" trong ngành xuất bản. Ba công trình đó là "Hồ Chí Minh - danh nhân văn hóa" (NXB Văn hóa Thông tin, 315 trang), "Hồ Chí Minh - một nhân cách lớn" (NXB Văn hóa thông tin, 510 trang) và "Đạo Khổng trong văn Bác Hồ" (NXB Đại học quốc gia Hà Nội, 375 trang).