NGUYỄN KHẮC THẠCH
Thơ, Nàng thơ và Thi sĩ là điệp khúc tình yêu muôn thuở giữa 3 ngôi Trao-Nhận-Trả mà đấng hóa công đã ban tặng con người.
Tranh của Lê Phổ - Ảnh: internet
Con số "bộ ba" ấy tương ứng với mối tương quan màu nhiệm Thiên chúa ba ngôi (Cha - Con - Thánh Thần) trong Ki tô giáo hoặc Tam bảo (Phật - Pháp - Tăng) trong Phật giáo hay Tam tài (Thiên - Địa - Nhân) trong Kinh Dịch.
Nàng thơ chính là nguồn cảm xúc trinh nguyên, kì bí của Thi sĩ. Đó là cuộc ngẫu hôn đại ngộ cho đứa Con - Thơ - Tác Phẩm ra đời. Trong mối quan hệ "tay ba" này, thi sĩ bao giờ cũng đóng vai trò "khổ chủ”. Có thể có những khoảnh khắc của thực tại nào đấy, Thi sĩ sẽ cảm thấy như mình đồng nhất với Thơ và Nàng thơ, như hoà tan vào nhau trong một tâm trạng kỳ lạ bất sai biệt.
Nàng thơ là ai? Nàng từ đâu đến? Nàng đến với ai? Nàng vừa hư, vừa thực, vừa thiên thần vừa ác quỷ, vừa là nàng vừa không phải là nàng. Thế nhưng hầu như Thi sĩ nào cũng vậy, bên đời thơ của họ đều lấp ló một gương mặt Nàng thơ cụ thể. Cái cụ thể ấy, đôi khi, dấu ấn của nó cũng đậm bi lụy như một quan hệ của "cơ chế bạc mệnh". Trường hợp giữa Natalia và Puskin là một điển chứng. Natalia là con gái của dòng họ Gôntsarốp, nổi tiếng về nhan sắc tuyệt vời khiến cho người đương thời phải thán phục và cũng không thể không có những kẻ hờn ghen rắp tâm mưu hại. Phải chăng vì Nàng thơ mà Puskin đã phải trải qua nhiều lần đấu súng (27 lần trong đời ông) và cuối cùng phải lãnh cái chết để bảo vệ danh dự cho Nàng? Những bài thơ tình kiệt tác của Puskin dù bắt nguồn từ một cảm xúc nào, từ một địa chỉ nào ngoài Natalia hoặc trước đó là Elidaveta thì nó vẫn có một cái tên chung "Nàng thơ". Nàng thơ càng mong manh bao nhiêu với Thi sĩ thì nó càng làm cho tác phẩm thơ mang khát vọng vĩnh cửu bấy nhiêu. Natalia đến với Puskin trong tư cách song đôi vừa là vợ, vừa là Nàng thơ - một tư cách thật hi hữu. Nhưng có lẽ đó cũng là cái nút bi kịch với nhà thơ nói riêng và thi ca nói chung. Sau khi Puskin qua đời Natalia sống trong cô đơn, hờn tủi và đầy miệng tiếng. Người ta chỉ biết về Natalia như một con búp bê xinh đẹp, vô hồn, vô dụng buộc Puskin phải vắt kiệt sức mình làm lụng, kiếm tiền để phục dịch cho vợ. Cũng có những nhà thơ tài năng như Xvesaxva hoặc Akhmatova đầy mặc cảm, cay nghiệt miệt thị Natalia là đồ "nữ yêu Puskin" trong một số bài thơ của họ. Năm 1973, người ta tìm thấy 7 bức thư của Natalia (viết năm 1836) gửi cho anh em của mình xin tiền để giúp chồng vượt qua thiếu thốn, kham khổ và bận bịu bởi sự câu thúc cơm áo. Nhờ những bức thư đó, người ta đã giải oan cho nàng. Chính Puskin đã thổi linh hồn vào con "búp bê", Nàng thơ xấu số của mình. Còn Nàng thơ thì đã làm cho Puskin mụ đi không hề ý thức được sự thiên tài của mình.
Quan hệ giữa Thi sĩ và Nàng thơ và Thơ là quan hệ "tam hợp" của nhân duyên hội tụ. Nó từ một ra ba và tuy ba nhưng là một. Bởi thế, khi đối diện với Nàng thơ, không phải tâm hồn nào cũng trở nên thi sĩ. Mặc dù, về phương diện mỹ học, theo trường phái Kant thì cái đẹp không có trong sự vật, nó là tự thân của chủ thể "cái đẹp không ở trên đôi má hồng thiếu nữ mà nằm trong đôi mắt của kẻ si tình" nhưng gặp Hegel thì nó được đảo ngược lại. Chắc ở đây chân lý thuộc về Hegel, cái đẹp tồn tại trong sự vật nhưng phải thông qua ý niệm của con người. Lẽ vậy, cái đẹp sẽ uổng phí biết bao nếu không được một lần hội ngộ...
Điều này, câu chuyện về Abutalip và nàng Khatimat vẫn còn đấy như một "điển cố hiện tiền". Sau khi rời bỏ nghề chăn cừu tẻ nhạt, Abutalip chuyển sang nghề hàn thiếc và có cơ hội đi đây đi đó. Tại một làng nọ, ông gặp một cô gái xinh đẹp có tên là Khatimat mang chiếc bình hỏng đến chữa. Ông đã phải lòng cô gái ngay từ buổi đầu gặp gỡ ấy rồi khao khát yêu đương và "càng uống càng khát" trong mối tình đơn phương, vô vọng. Sự kiện ấy diễn ra như một biến cố tâm linh trong đời Abutalip. Còn cô gái xinh đẹp dường như chê chàng hàn thiếc nghèo hèn và lấy người khác, rồi một người khác nữa làm chồng. Abutalip nhớ nàng, khổ đau nung nấu thành thơ, thành nhiều thơ. Có thể nói, nhờ sự phụ bạc của Khatimat mà Abutalip nổi tiếng về thơ rồi về hoạt động xã hội, rồi về cả những câu bất hủ: "Nếu anh bắn vào quá khứ bằng súng lục thì tương lai sẽ bắn vào anh bằng đại bác". Sau này, khi gặp lại nhà thơ, Khatimat có ý kể công "Nếu ngày ấy không có tôi đem bình đến cho ông chữa, thì bây giờ ông vẫn còn là ông thợ hàn thiếc ngồi ngoài chợ!". Abutalip vặn lại "Nếu quả thật quyền lực của chị nhiều đến thế, chị Khatimat ạ, thì tại sao chị không biến anh chồng thứ nhất rồi thứ hai của mình thành nhà thơ?".
Quả vậy, Abutalip đã nói đúng, không ai có đủ quyền lực, đủ khả năng biến người này hoặc người nọ thành nhà thơ nếu người đó không có tài, không tự mình trở thành nhà thơ.
Như trên đã đề cập, Nàng thơ nói chung là nguồn cảm hứng sáng tạo cho người thơ, nó không phân biệt đối tượng, giới tính. Do đó, có khi chính "Nàng" lại ở phái mày râu. Bài "Hai sắc hoa ti gôn" nổi tiếng của TTKH chẳng phải là cảm xúc từ một "Nàng thơ male" đó sao? Nhưng theo cách hiểu nôm na, thông thường thì nàng thơ vẫn được coi là độc quyền riêng của phái đẹp.
Thời chúng ta, thời ra ngõ gặp người đẹp, vào quán đụng nhà thơ mà sao quá hiếm hoi những bài thơ tình hay, chưa nói là thơ tình kiệt tác? Ôi! Phải chăng, nàng thơ đã chết? Không! Nàng thơ không chết. Nàng vẫn ẩn náu đâu đó trong mỗi chúng ta. Cuộc sống không có nàng thơ thì nó chẳng có ý nghĩa gì nữa. Người đẹp chưa hẳn đã là Nàng thơ. Người đẹp là thực còn Nàng thơ thì ảo. Người đẹp là cái đẹp vật chất, cái đẹp của cuộc sống. Nàng thơ là cái đẹp tinh thần, cái đẹp của nghệ thuật. Cái đẹp nghệ thuật bao giờ cũng cao hơn cái đẹp cuộc sống. Chính vì vậy, cuộc sống mới cần nghệ thuật và cũng chính vì vậy mà nghệ thuật không thể tồn tại với tư cách là sao chép cuộc sống. Điều này, họa sĩ nổi tiếng Pháp Phan-cô-nê đã nói thẳng thừng: "Nếu chỉ làm việc sao chép thì giữa sự vật và tác phẩm sẽ có một cái thừa". Nghệ thuật là niềm khát khao sáng tạo muôn đời của cuộc sống. Mặt nào đó, nghệ thuật cùng có cội rễ với tôn giáo, chúng đều bừng nở trong tuệ giác. Bởi vậy, những công trình nghệ thuật đầu tiên của loài người đều mang tính tôn giáo huyền bí, kỳ vĩ. Nàng thơ được coi như sợi dây chuyền sáng thế từ nghệ sĩ ra tác phẩm. Nàng thơ không chỉ đứng trong cái đẹp mà đứng trong cả sự đổ vỡ của cái đẹp. Nàng bênh vực nước mắt, nàng bênh vực nỗi buồn. Nàng thơ dị ứng với cuộc sống thực dụng, xa hoa, ích kỷ và giả trá nên nàng đang bị xua đuổi dần trước môi trường ngày càng một ô nhiễm sự giàu sang ô trọc.
Con người đã đưa ra những tiêu chí để khu biệt ranh giới giữa mình với loài vật như công cụ lao động, ngôn ngữ, sinh vật chính trị... nhưng xét cho cùng, những tiêu chí đó cũng là bản lề cho cả hai phía - hiểu theo một cách nào đó. Vậy cái đặc trưng để phân biệt giữa con người với loài vật, nếu cần người ta cũng có thể tính đến nhân tố Nàng thơ. Con người cần có Nàng thơ. Loài vật không cần Nàng thơ. Chính nhờ Nàng thơ mà con người sáng tạo ra nghệ thuật, sáng tạo ra một thế giới lý tưởng riêng cho mình khác với thế giới đang sống chung cùng loài vật. Hiểu theo nghĩa rộng thì Nàng thơ, đó là cuộc sống, là chất xúc tác để hoàn thiện nhân cách, là thước đo về tư chất và phẩm giá con người.
N.K.T
(TCSH84/02-1996)
PHAN TRỌNG HOÀNG LINH
Được Bakhtin đề xuất trong công trình nghiên cứu về sáng tác của Frăngxoa Rabơle, thuật ngữ chủ nghĩa hiện thực nghịch dị (grotesque realism) là sự định danh ước lệ cho một kiểu hình tượng đặc thù (hay phương pháp xây dựng hình tượng đặc thù) của nền văn hóa trào tiếu dân gian, kiểu hình tượng nghịch dị.
LTS: Phạm Phú Uyên Châu, bút danh Meggie Phạm, sinh năm 1991, hội viên trẻ nhất của Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế, tác giả của bộ truyện dài liên hoàn do Nxb. Trẻ ấn hành: Hoàng tử và em (2011, tái bản 2011), Giám đốc và em (2011, tái bản 2012), Chàng và em (2012, tái bản 2012), Người xa lạ và em (2012) và Tôi và em (đang in).
ĐOÀN ÁNH DƯƠNG
Trong Điều kiện hậu hiện đại, Jean-Francois Lyotard cho rằng: “Bởi vì người ta không thể biết điều gì xảy ra cho tri thức, tức là sự phát triển và truyền bá nó hiện nay đang gặp phải những vấn đề gì, nếu không biết gì về xã hội trong đó nó diễn ra.
ĐANIEN GRANIN
Năm ngoái, một tai họa xảy ra với tôi. Tôi đi trên đường phố, bị trượt chân và ngã xuống... Ngã thật thảm hại: mặt áp xuống, mũi toạc ra, tay bị tréo lên vai. Lúc đó khoảng bảy giờ chiều, ở trung tâm thành phố, trên đại lộ Kirov, cách ngôi nhà ở không xa.
PHẠM QUANG TRUNG
Bàn về hiệu quả của lý luận trong quan hệ với sáng tác, cần phân tách xu hướng lý luận dành cho tìm hiểu sáng tác của nhà văn (hướng nhiều hơn tới người nghiên cứu) với xu hướng lý luận dành cho sáng tác của nhà văn (hướng nhiều hơn tới người sáng tạo).
HÀ VĂN LƯỠNG
Trong thể loại tự sự, người trần thuật giữ một vai trò quan trọng, góp phần làm nên giá trị nghệ thuật tự sự của tác phẩm văn học.
NGUYỄN THỊ TỊNH THY
Đời sống văn học không thể thiếu phê bình, nghiên cứu. Nếu xem “tác phẩm văn học như là quá trình”(1) thì phê bình và nghiên cứu là một khâu quan trọng trong chuỗi quá trình đó.
PHAN TUẤN ANH
1. Nguyên tắc thẩm mỹ facebook và lối đọc status - entry
Những tác phẩm của Đặng Thân như Ma net mà đặc biệt là 3339 [những mảnh hồn trần] từ khi ra đời đến nay đã trở thành những “cú sốc văn hóa” mini trong đời sống văn học Việt Nam.
BÙI BÍCH HẠNH
Cất tiếng như một định mệnh của quyền năng nghệ thuật giữa phố thị thơ miền Nam những năm 50 - 60 thế kỉ XX, người thơ Thanh Tâm Tuyền, bằng tuyên ngôn nghệ thuật khởi từ ca dao sang tự do, đã tham dự vào thi đàn vốn nhiều biến động với tư cách một hữu thể mưu cầu phục sinh.
NGUYỄN QUANG HUY
Phạm Thái (1777 - 1813) là một khuôn mặt khá đặc biệt trong thơ văn Việt Nam giai đoạn cuối thế kỉ XVIII, đầu thế kỉ XIX. Đặc biệt trong thời đại ông sinh ra và ứng xử với nó; đặc biệt trong cách thể hiện thế giới nghệ thuật nhiều cá tính, nhiều gương mặt; đặc biệt trong vũ trụ mộng trước cuộc đời; đặc biệt trong cách thế tồn tại tài hoa mệnh bạc của ông; đặc biệt hơn là thơ văn của ông chưa được lưu ý phân tích ở chiều sâu tâm lí, chiều sâu thẩm mĩ.
THÁI DOÃN HIỂU
Thời kỳ còn sống lang thang Kazan, nhà văn trẻ tài năng M. Gorky luôn làm phiền cho trật tự của chính quyền, cảnh sát Nga Hoàng tống lao ông. Trong tù, ông vẫn viết truyện, tuồn ra ngoài in đều đều trên các mặt báo.
INRASARA
1.
Ch. Fredriksson trả lời cuộc phỏng vấn, cho rằng: “Ý tưởng dường như có tính tiên quyết, xem người nghệ sĩ làm gì và làm như thế nào với tác phẩm của mình, để làm sao cho tác phẩm ấy có hiệu quả nhất khi đến với công chúng.
NGUYỄN BÀN
Hồi còn học trung học, khi đọc Truyện Kiều, chúng tôi đinh ninh rằng Thúy Kiều gặp Kim Trọng lúc tuổi “xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê”, nghĩa là khoảng 15, 16 tuổi. Nay đọc cuốn Tìm hiểu Truyện Kiều của tác giả Lê Quế (Nxb. Nghệ An, 2004) thì thấy Thúy Kiều gặp Kim Trọng lúc 22 tuổi.
PHẠM PHÚ PHONG
Nguyễn Hữu Sơn là nhà nghiên cứu văn học trung đại Việt Nam, là phó giáo sư, Tiến sĩ, Phó Viện trưởng Viện Văn học và Phó Tổng Biên tập Tạp chí Nghiên cứu Văn học.
LUÂN NGUYỄN
Trần Đức Thảo, với người Việt, hiển nhiên là một trí tuệ hiếm có. Trong tín niệm của tôi, ông còn là một trí thức chân chính. Một trí thức dân tộc.
MAI VĂN HOAN
Trong những tháng ngày ở Châu Thai chờ đợi Từ Hải, sau khi diễn tả nỗi nhớ của Kiều đối với quê nhà, cha mẹ, Nguyễn Du viết: Tiếc thay chút nghĩa cũ càng/ Dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng.
NGUYỄN HỒNG TRÂN
Vua Minh Mạng (tên hoàng tử là Nguyễn Phúc Đảm) lên làm vua năm Canh Thìn (1820). Ông là một vị vua có tri thức uyên thâm, biết nhìn xa thấy rộng.
VĂN NHÂN
Trong bài thơ viết về dòng sông Hương, Nguyễn Trọng Tạo có bốn câu khá hay: Con sông đám cưới Huyền Trân/ Bỏ quên giải lụa phù vân trên nguồn/ Hèn chi thơm thảo nỗi buồn/ Niềm riêng nhuộm tím hoàng hôn đến giờ (Con sông huyền thoại).
THÁI KIM LAN
(Đôi điều về Con Đường Mẹ Đi)
Trước tiên, khi thử nhìn lại con đường của Mẹ - Đạo Mẫu, tôi lại muốn đánh dấu chéo gạch bỏ những khái niệm “Đạo Mẫu”, Tiên Thánh Liễu Hạnh, Thánh Cô và một loạt những nhân vật được tôn sùng cho sức mạnh, thế lực hàng đầu của nữ giới Việt, thường được hóa thánh, sùng thượng một thời.
THÁI DOÃN HIỂU
Thân sinh của Cao Bá Quát là ông đồ Cao Hữu Chiếu - một danh nho tuy không đỗ đạt gì. Ông hướng con cái vào đường khoa cử với rất nhiều kỳ vọng.