Năm Hợi 2007: nghĩ về con số 7

10:46 04/11/2008
HÀ VĂN THỊNHSố 7 là một con số huyền thoại. Nếu như tính xuất xứ xa nhất, công đầu về việc “tìm ra” số 7, thuộc về người Ai Cập, cách nay ít nhất 5.000 năm. Khi hiểu được rõ ràng việc con sông Nil chia làm 7 nhánh trước lúc đổ ra Địa Trung Hải, người Ai Cập vận “lý” để tin là nó nhất định phải hàm chứa nghĩa bí ẩn nào đó phản ánh cái “tư tưởng” triết lý của Đấng Tạo hóa.

Có lẽ đồng thời với cái sự hiểu trên, con người cổ xưa thấy rằng 7 sắc cầu vồng là một ám chỉ hữu hình nhất của ảo ảnh. Sự lung linh vừa huyền ảo vừa thoảng qua ấy, ngắn và rực rỡ như số kiếp của chính con người. Những âm thanh huyền hoặc của âm nhạc, sức mạnh bí ẩn và siêu phàm của nó đã làm cho các nền văn minh, từ Đông sang Tây phải choáng ngợp. Thậm chí, trong những câu chuyện ngoài chính sử của văn minh Trung Hoa, có rất nhiều vũ khí, độc pháp, siêu lực được tạo ra từ 7 nốt nhạc nhiệm màu. Chắc chắn 7 nốt nhạc sẽ bất tử cùng với con người. Tại sao trên gương mặt người có thất khiếu, trong khi cả thân thể là cửu khiếu? Sự rờ rỡ ấy của biểu hiện tuy giống nhau nhưng kỳ lạ là rất hiếm có ai đó giống ai hoàn toàn, ngay cả anh em sinh đôi. Tính phổ quát trong cái khu biệt đặc thù có thể là nét bí ẩn của con số 7 này. 2550 năm trước, ở xứ sở của vương quốc Kapilavastu (Khatìlavệ), Thái tử Shidarthad được sinh ra, ngay lập tức bước 7 bước rồi bỗng nhiên nói được(!) 7 bước ấy có  liên quan gì tới việc sau khi sinh ra 7 ngày, thân mẫu của Đức Phật qua đời? Huyền thoại nhiều ảo dị đó có liên quan gì đến 7 tầng địa ngục hoặc 7 tầng trời hay không, nói như người Nga, Bog Znaiet (Chỉ có trời mới biết)? Chỉ biết rằng sau này Đức Phật (Buddha) dạy, con người sinh ra ai cũng có thất tình, tức 7 trạng thái tình cảm: Ái, ố, hỷ, nộ, lạc, ai, dục - yêu thương, xấu hổ, vui mừng, giận dữ, sung sướng, buồn khổ và ham muốn. Số 7 còn bắt ta nghĩ đến tuần lễ có 7 ngày, tháng 7(July) của Julius Caesare (100-44 tr.CN) vĩ đại. Đó là tháng mà Vị Hoàng đế, nhà sử học, nhà Lịch pháp học, người tình tuyệt vời của Cléopâtre đồng thời là nhà quân sự xuất sắc, đã được sinh ra.

Con số 7 đi theo con người trong muôn phận kiếp long đong của nó: Ba chìm bảy nổi chín lênh đênh. Sống là thế nhưng khi chết lại phải gọi đến 3 hồn, 7 vía. Hồn vía chắc chắn “nổi” tới tận thiên đàng. Có thể vì tin là thế nên người ta thường kỵ - giỗ người thân theo bội số của 7: cúng 50 ngày (kỳ thực là 49) hay 100 ngày (kỳ thực là hai lần 49). Phải chăng việc cúng kỵ này cũng liên quan đến chuyện Đức Phật đã ngồi thiền dưới gốc cây Bồ Đề (Bodhi) 49 ngày ròng rã? Của cải, theo người Trung Hoa quan niệm, có 7 thứ quý nhất (thất bảo) là: san hô, hổ phách, xà cừ, mã não, vàng, trân châu và ngọc lưu ly. Tất nhiên quan niệm ấy giờ đây không còn đúng nữa. Con số 7 còn gợi đến một tài hoa bạc mệnh của câu chuyện “thất bộ thành thơ” của Tào Thực thời Tam Quốc. Chuyện kể lại  Tào Phi muốn lập kế hại em trai để giữ yên ngôi báu, nên thử xem Tào Thực tài đến cỡ nào, bắt ép Thực làm thơ sau 7 bước. Bài thơ làm xúc động mọi con tim: Cẳng đậu đun hạt đậu. Hạt đậu khóc hu hu. Anh nỡ hại em thế. Tình nghĩa như thế ru?

Chuyện về “Đôi hia 7 dặm” của Charles Perrault trong tác phẩm Le Petit Poucet có lẽ là một trong những câu chuyện thiếu nhi hay nhất viết về đề tài con số 7. Còn câu chuyện có thực bi thảm nhất là sự kiện “Song Thất” - 7.7.1937 ở Lư Cầu Kiều, liên quan đến vụ thảm sát mà quân phiệt Nhật gây ra ở Trung Quốc. Chuyện tình đẹp nhất, bi thương và nhiều nước mắt nhất (cho dẫu chỉ là những hạt mưa ngâu nhỏ) là nói về đêm Thất Tịch (7.7 ÂL) khi Ngưu Lang và Chức Nữ chỉ có thể gặp nhau mỗi năm một lần nhờ vào chiếc cầu ô thước đen tuyền, ảm đạm. Trong trường ca Mahabharata quy định rõ nghi lễ thành hôn phải thực hiện bằng 7 bước: Bước thứ nhất dành cho nhựa sống; bước thứ hai cho sức sống; bước thứ ba cho sự thịnh vượng giàu sang; bước thứ tư cho tiện nghi; bước thứ năm để có nhiều trâu bò; bước thứ sáu cho mùa màng bội thu và bước thứ 7, dành cho sự dâng hiến(bhakti) của “phân nửa của người chồng” (ardhangi) dành cho người chồng. “Này em hỡi! Khi em được kết hợp với tôi đây trong 7 bước này như vậy em đã có thể là người dâng hiến cho tôi”.

7 kỳ quan của thế giới là câu chuyện nhiều phiền hà bởi vì chẳng ai chịu ai về con số 7 gây nên nhiều bất đồng trong việc đánh giá 7 danh thắng vĩ đại nhất của loài người. Anh hùng ca hay nhất là chuyện Thánh Gióng trở thành bất hủ sau khi đã ăn 7 nong cơm, 3 nong cà. Ăn nhiều và mặn như thế, biết đâu Thánh Gióng quê ở Nghệ Tĩnh? Còn bộ phim hay nhất của thế giới phim hình sự đương đại chắc hẳn không thể phim nào sánh nổi với James Bond - điệp viên 007. 007 còn lớn hơn cả một huyền thoại.

Năm 2007 có lẽ sẽ có nhiều dấu ấn đặc biệt. Người Hàn Quốc tin rằng Đinh Hợi là  “Con Heo Vàng” - cứ 600 năm mới có một lần. Những tấm lòng vàng của Việt Nam đã lập kỷ lục khi chỉ trong 7 ngày đầu tiên của “tuần lễ giao thừa” (30.12.2006-5.1.2007), tổng số tiền quyên góp qua tin nhắn của tổng đài “có số 7” cho người nghèo đã đạt tới con số 10 tỷ đồng! Đó là con heo vàng nghĩa cử đầu tiên của lòng nhân ái, bao dung. Tuy nhiên, bước sang năm 2007, chúng ta đang có 7 vấn đề lớn: Cải cách hành chính, tham nhũng, chất lượng tăng trưởng, tai nạn giao thông, giáo dục, các dạng “treo” và tư tưởng chủ quan, “ngây thơ” trước các hiểm họa. Nếu khắc phục được 7 nhiệm vụ không dễ dàng ấy, chắc chắn chúng ta sẽ đạt đến nhiều đỉnh cao mới trong năm thứ 7 của thế kỷ 21.
                                                            H.V.T

(nguồn: TCSH số 216 - 02 - 2007)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN DƯƠNG CÔNĐề tài và chủ đề là hai trạng thái cơ bản nhất, bao dung hết thảy làm nên cấu trúc tổng thể tác phẩm tiểu thuyết. Hai trạng thái đó trong liên kết tương tác gây dẫn nên tất cả những yếu tố ý nghĩa nội hàm tiểu thuyết. Chúng còn đồng thời gây dẫn nên những yếu tố ý nghĩa liên quan nảy sinh trong tư duy tiếp nhận ngoài ý nghĩa nội hàm tiểu thuyết. Nhưng dẫu có như thế, chỉ có thể hình dung cho đúng đắn được đề tài, chủ đề theo định hướng duy nhất thấy chúng trong cấu trúc nội bộ tổng thể tác phẩm tiểu thuyết.

  • NGUYỄN HỒNG DŨNGQuá trình “hiện đại hoá” văn học Việt Nam giai đoạn 1932 - 1945 diễn ra dưới sự tác động trực tiếp của văn học phương Tây. Gần một thế kỷ nay, khi nghiên cứu những tác động từ bên ngoài vào Việt Nam giai đoạn này các nhà ngữ văn chỉ chủ yếu nhấn mạnh đến ảnh hưởng của văn học Pháp. Trong bài viết này, chúng tôi đề cập đến ảnh hưởng của nhà thơ Mỹ Edgar Poe đối với Hàn Mặc Tử, một đỉnh cao của phong trào “thơ mới”.

  • PHẠM PHÚ PHONG            Tiểu thuyết, đó là một trong những sáng tạo kỳ diệu của con người, đó là một đồ dùng, một vũ khí của con người để tìm hiểu, chinh phục dần thế giới và để tìm hiểu nhau và sống với nhau.                                                                                       Nguyễn Đình Thi

  • PHONG LÊ(Trích - Nhìn từ các mục tiêu của công việc “viết”)

  • NGÔ TỰ LẬPTrong thời gian làm luận án ở École Normale Supérieure de Fontenay/ Saint Cloud , tôi được nghe một câu chuyện thú vị. Trong nhà giam nọ, đám tù khổ sai, sau mỗi ngày lao động như trâu ngựa dưới đòn roi của cai ngục, chỉ có một thú tiêu khiển là nghe một người trong bọn họ kể chuyện tiếu lâm.

  • HỒ THẾ HÀTrần Vàng Sao là nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ. Thơ anh là tiếng nói giàu nhiệt huyết, xuất phát từ đáy lòng, hướng đến mọi người bằng giọng điệu giãi bày, tâm tình, chia sẻ. Anh sáng tác không nhiều, nhưng mỗi tác phẩm của anh để lại dấu ấn thi pháp độc đáo, đặc biệt ở việc xây dựng tứ thơ và kiến trúc bài thơ, ở hình ảnh và sức liên tưởng bất ngờ.

  • NGUYỄN HUỆ CHI     Trần Thanh Mại (1908-1965) là một nhà văn xứ Huế, một tên tuổi trong giới nghiên cứu, phê bình và sáng tác từ trước Cách mạng tháng Tám. Những cuốn sách ông viết rải rác trong vòng 30 năm như Tuy Lý vương, Hàn Mạc Tử, Trông giòng sông Vị, Tú Xương con người và nhà thơ... đã từng gây được ấn tượng lúc mới ra đời và đến nay vẫn còn nhiều phần giá trị. Những phát hiện của ông về Hồ Xuân Hương, Miên Thẩm đã từng gây xôn xao một thời mà sự tiếp nối của người sau cũng chưa thể nói là đã vượt qua.

  • ĐẶNG TIẾNTừ điển Nghệ Thuật Hát Bội Việt Nam do Giáo sư Nguyễn Lộc chủ biên, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, ấn hành năm 1998, gồm non 700 trang khổ lớn 15x23cm, in đẹp, bìa cứng tổng hợp đầy đủ kiến thức về ngành ca kịch hát bội, còn gọi là hát bộ, hay tuồng, hay tuồng cổ.

  • THÁI DOÃN HIỂUGiữa ngổn ngang những dữ kiện, con số, tiền nong, ngành Ngân hàng Việt vẫn hào hiệp tặng cho thi đàn ra một hồn thơ tinh tế: Nguyễn Ngọc Oánh.Trong thi sĩ Nguyễn Ngọc Oánh có hai con người: một trẻ và một già!

  • NGÔ ĐỨC TIẾNNăm 1989, báo Văn nghệ tổ chức cuộc thi thơ kéo dài trong 2 năm, tôi có gửi 5 bài thơ dự thi. Thơ gửi đi rồi, chưa mong được giải, chỉ mong được in báo Văn nghệ một vài bài vì trước đó tôi cũng đã nhiều lần gửi báo Văn nghệ nhưng chỉ được in một bài thơ “Giọng Nghệ”.

  • TRẦN THÁI HỌC(Nhân đọc Sông Hương phê bình và đối thoại - Nxb văn hoá thông tin - 2003)

  • MAI BÁ ẤNNgoài sáng tác, hơn mười năm trở lại đây, Thanh Thảo còn xuất hiện với tư cách là một người viết tiểu luận - phê bình được bạn đọc rất chú ý bởi giọng văn sắc sảo với những phát hiện độc đáo, mới mẻ. Nhìn chung, phong cách viết tiểu luận-phê bình của Thanh Thảo khá nhất quán nhằm mục đích tìm ra cái hay cái độc đáo của tác phẩm văn học mà không ồn ào tranh luận, không nặng nề về lý thuyết nhưng có độ bền về tính triết lý.

  • NGUYỄN DƯƠNG CÔNPhê bình văn học là một hình thái vận động của đời sống văn hóa văn học. Nó không phải là một thể loại văn học. Nó gắn bó huyết mạch tất yếu với vận động sáng tạo - hưởng thụ văn học.

  • HƯƠNG GIANG - PHẠM PHÚ PHONGLịch sử nói chung phán xét những gì đã qua, nhưng lịch sử nghệ thuật thì  phán xét những gì còn lại. (Thái Bá Vân)

  • VÕ TẤN CƯỜNGCon đường của thi ca và cái nhìn của nhà thơ thời hiện đại đang hướng tới tầm cao mới và cả chiều sâu thẳm bí ẩn của vô ngã ẩn khuất dưới bao biến động dữ dội của những thể chế chính trị, giáo lý và các phát minh khoa học kỹ thuật.

  • PHONG ĐIỆPXã hội hoá giải thưởng - và chuyện kiếm tiền “nuôi thơ” thời bão giá

  • CHÂU MINH HÙNGLối viết chỉ là Tự do trong một khoảnh khắc. Nhưng đó là một trong những khoảnh khắc có ý nghĩa nhất của Lịch sử, bởi Lịch sử luôn luôn và trước hết là một lựa chọn và những giới hạn của lựa chọn ấy.                                      (R. Barthes, Độ không của lối viết)

  • TRẦN THIỆN KHANHTích nhân/  dĩ thừa/  hoàng hạc khứThử địa/  không dư/  Hoàng Hạc lâuHoàng hạc/ nhất khứ/  bất phục phảnBạch vân/ thiên tải/ không du du…

  • PHẠM THỊ THÚY VINHThơ Lâm Thị Mỹ Dạ rất giàu hình ảnh. Thế giới hình ảnh trong thơ chị vừa đậm sắc màu hiện thực, ngồn ngộn hơi thở cuộc sống vừa mang tính biểu tượng cao. Điều đó đã thể hiện tài năng và sự khéo léo của nhà thơ, nhằm làm cho những bài thơ của mình không chỉ dừng lại ở những lời thuyết lí khô khan, trừu tượng. Thế giời hình ảnh bao giờ cũng gợi ra trong trí tưởng tượng của người đọc nhiều liên tưởng bất ngờ và thú vị, làm cho lời thơ thêm mượt mà, trong sáng.

  • NGUYỄN DƯƠNG CÔN   (Tiếp Sông Hương số 11-2008)Bản thể con người chỉ cấu trúc bằng cảm giác và những gì là biến tướng khả dĩ của cảm giác mà không từ bỏ cấu trúc thiên định bao gồm kết cấu thực và kết cấu ảo của cảm giác. Nếu hình dung kết cấu thực là trạng thái mô phỏng thế giới, nghĩa là cái quan hệ hấp dẫn giữa xung động thần kinh não bộ con người với xung động tiếp nhận thế giới, thì chúng ta hình dung được kết cấu ảo chỉ là sản phẩm thuần tuý do xung động nội tại của thần kinh não bộ con người.