Nam Cao - Tô Hoài chia sẻ từ trang viết đến cuộc đời

09:12 23/09/2016

Tình bạn giữa Nam Cao và Tô Hoài đã gắn bó từ thuở mới bước chân vào làng văn và còn gắn bó lâu dài mãi về sau này.

Nhà văn Nam Cao, nhà văn Tô Hoài

Từ thầy trò thành bạn tri kỷ

Tác giả Dế mèn phiêu lưu ký là người cẩn trọng chữ nghĩa, đi nhiều, quảng giao, quan hệ rộng. Đọc Tự truyện, Chiều chiều, Cát bụi chân ai... có thể thấy rõ điều đó. Tuy nhiên, có một bạn văn cùng thời, ông luôn nhắc đi nhắc lại với giọng văn tình cảm, trìu mến: Nam Cao.

Tô Hoài “vào nghề” lúc truyện ngắn Nước lên được đăng Báo Hà Nội tân văn. Bấy giờ, năm 1938, Nam Cao đang là thầy giáo dạy học Trường tư Công Thành ở làng Thụy Khuê, Hà Nội. Tô Hoài đến học thêm tiếng Pháp. “Tôi gọi anh là ông giáo Tri. Nam Cao biết tôi ít tuổi hơn anh, văn hóa kém anh nhưng về sau anh thấy tôi đã viết được truyện đăng báo. Tôi nghĩ việc đó có thể khuyến khích anh. Nam Cao đã đỗ bằng “đíp lôm” thích viết văn, thế mà đến nay vẫn lận đận”, Tô Hoài cho biết. Từ đây, hai người trở thành đôi bạn tri kỷ. Chia sẻ buồn vui từ trang viết.

Cuộc đời nhà giáo của Nam Cao không kéo dài. Ít lâu sau, ngày 22.9.1940, Pháp nhục nhã cúi đầu ký kết hiệp định chấp nhận phát xít Nhật chiếm đóng Đông Dương. Trường tư Công Thành bị đóng cửa vì lính Nhật trưng dụng làm chuồng ngựa!

Tác giả Dế mèn phiêu lưu ký đã nhớ lại tháng năm này: “Mấy năm nay, Nam Cao thất nghiệp vì trường học phải đóng cửa đã về ở nhà tôi. Chúng tôi ở trong một gian bên kín bưng, cái gian nhà ngày trước có những thầy giáo bên đạo đã ở, chỉ trổ một vuông cửa sổ tí tẹo, thành gạch sâu và im ắng đến nỗi bất chợt thò tay có thể nắm được đuôi chú chim sẻ đương than vãn ngoài hốc tường... Mỗi tháng, chúng tôi bận viết vào mấy ngày cuối tháng. Có khi, chúng tôi phải viết đổi tay cho nhau mới kịp. Nam Cao thạo tả nhân vật, tôi nhờ anh viết cho tôi những đoạn như thế. Lúc Nam Cao buồn ngủ hay chán viết, anh bảo tôi: “Cậu làm hộ mình thế này nhé. Sắp mưa, bờ ao có bụi tre. Buổi chiều, mấy trang cũng được”. Tôi vốn thích tả cảnh. Tôi lia hộ bạn vài trang như anh đã phác.

Thời gian này, năm 1941, Nam Cao đã viết được truyện vừa Cái lò gạch cũ, tức kiệt tác Chí Phèo. Sau khi viết được truyện ngắn Cái lò gạch cũ, Tô Hoài cho biết, bạn mình đã cầm bản thảo bán cho ông Trác Vỹ, chủ Nhà xuất bản Đời Mới. Dăm ngày sau, đến dò hỏi thế nào, ông này nói với Nam Cao rằng, cái tựa cũ không “ăn khách” nên nhờ nhà văn nổi tiếng nhất bấy giờ là Lê Văn Trương đổi thành Đôi lứa xứng đôi. Do Nam Cao đang là cây bút mới, sợ độc giả không chú ý nên ông Vỹ mới thuê nhà văn đang nổi tiếng với nhiều tác phẩm như Ngựa đã thuần rồi mời ngài lên viết lời giới thiệu. Có điều khá hài hước là khi sách in xong, ngoài bìa người ta in tên Lê Văn Trương to gấp mấy lần tên Nam Cao. Âu cũng là một cách “tiếp thị” trong thị trường sách thuở ấy. Từ Đôi lứa xứng đôi, tên tuổi Nam Cao bắt đầu được công chúng biết đến. Ông tiếp tục viết thêm những truyện ngắn đặc sắc khác như Dì Hảo, Nửa đêm...

Nơi Nam Cao nằm xuống cũng có tên Vũ Đại

“Bấy giờ, đang là cây bút viết thường xuyên cho Nhà xuất bản Tân Dân của Vũ Đình Long, tôi mách mối, ông Tân Dân mời Nam Cao viết truyện thiếu nhi và truyện ngắn”, Tô Hoài kể. Không chỉ thế, qua Vũ Bằng - người này đang ăn lương của nhà Tân Dân điều hành tờ Tiểu thuyết Thứ Bảy, tác phẩm Nam Cao đã lần lượt được in nhiều và tên tuổi được bạn đọc biết đến. Tuy nhiên, nghề viết văn thuở ấy vẫn không thể đủ sống, nếu không muốn nói là túng thiếu.

Tình hình chính trị ngày càng ngột ngạt, oi bức như đang báo hiệu một cơn sấm sét sẽ đến. Tô Hoài đã bí mật tham gia Hội Văn hóa cứu quốc của Việt Minh. Ông có “giác ngộ” một số bạn văn, tất nhiên không thể thiếu Nam Cao: “Tôi đưa báo bí mật Cứu quốc, Nam Cao đọc chăm chú”. Cùng chí hướng như bạn, Nam Cao bắt đầu viết những bài về tình hình chính trị theo yêu cầu của đoàn thể. Sau ngày Toàn quốc kháng chiến, năm 1947, Nam Cao để vợ con ở Hà Nam, lên Bắc Kạn làm Báo Cứu quốc chung với Tô Hoài.

Vợ Nam Cao tên Sen - Trần Thị Sen, trong khi đó, tên thật của tác giả O chuột cũng tên Sen - Nguyễn Sen. Bà Trần Thị Sen cho biết: “Hai anh quấn quýt nhau lắm. Lúc anh Nam Cao còn sống, anh thường ước sau này hai gia đình sẽ trở thành sui gia”. Sáng 30.11.1951, Nam Cao bị giặc Pháp bắn chết tại gốc cây bàng trước nhà thờ Mưỡu Giáp rồi ném xác xuống ao. Nhắc lại lúc khốn khó sau khi chồng mất, bà Trần Thị Sen còn cho biết thêm con trai Nam Cao được Tô Hoài đem về chăm sóc, cho đi học. “Đặc biệt, tôi rất biết ơn anh chị Tô Hoài đã giúp đỡ tôi rất nhiều”, bà nói.

Có một điều lạ lùng không lý giải được: trước đây khi viết Chí Phèo, Nam Cao đã hư cấu ra một làng tên là Vũ Đại, nhưng ông không ngờ khi mình chết lại được chôn ngay trên đất làng Vũ Đại (H.Gia Viễn, Ninh Bình) có thật trên bản đồ!

Theo Lê Minh Quốc - TN

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • BỬU Ý

    Hàn Mặc Tử (Nguyễn Trọng Trí) từng sống mấy năm ở Huế khi còn rất trẻ: từ 1928 đến 1930. Đó là hai năm học cuối cùng cấp tiểu học ở nội trú tại trường Pellerin (còn gọi là trường Bình Linh, thành lập năm 1904, do các sư huynh dòng La San điều hành), trường ở rất gần nhà ga tàu lửa Huế. Thời gian này, cậu học trò 17, 18 tuổi chăm lo học hành, ở trong trường, sinh hoạt trong tầm kiểm soát nghiêm ngặt của các sư huynh.

  • LÊ QUANG KẾT
                   

    Giai điệu và lời hát đưa tôi về ngày tháng cũ - dấu chân một thuở “phượng hồng”: “Đường về Thành nội chiều sương mây bay/ Em đến quê anh đã bao ngày/ Đường về Thành nội chiều sương nắng mới ơ ơ ơ/ Hoa nở hương nồng bay khắp trời/ Em đi vô Thành nội nghe rộn lòng yêu thương/ Anh qua bao cánh rừng núi đồi về sông Hương/ Về quê mình lòng mừng vui không nói nên lời…” (Nguyễn Phước Quỳnh Đệ).

  • VŨ THU TRANG

    Đến nay, có thể nói trong các thi sĩ tiền chiến, tác giả “Lỡ bước sang ngang” là nhà thơ sải bước chân rong ruổi khắp chân trời góc bể nhất, mang tâm trạng u hoài đa cảm của kẻ lưu lạc.

  • TRẦN PHƯƠNG TRÀ

    Đầu năm 1942, cuốn “Thi nhân Việt Nam 1932-1941” của Hoài Thanh - Hoài Chân ra đời đánh dấu một sự kiện đặc biệt của phong trào Thơ mới. Đến nay, cuốn sách xuất bản đúng 70 năm. Cũng trong thời gian này, ngày 4.2-2012, tại Hà Nội, Xuân Tâm nhà thơ cuối cùng trong “Thi nhân Việt Nam” đã từ giã cõi đời ở tuổi 97.

  • HUYỀN TÔN NỮ HUỆ - TÂM
                                      Đoản văn

    Về Huế, tôi và cô bạn ngày xưa sau ba tám năm gặp lại, rủ nhau ăn những món đặc sản Huế. Lần này, y như những bợm nhậu, hai đứa quyết không no nê thì không về!

  • LƯƠNG AN - NGUYỄN TRỌNG HUẤN - LÊ ĐÌNH THỤY - HUỲNH HỮU TUỆ

  • BÙI KIM CHI

    Nghe tin Đồng Khánh tổ chức kỷ niệm 95 năm ngày thành lập trường, tôi bồi hồi xúc động đến rơi nước mắt... Con đường Lê Lợi - con đường áo lụa, con đường tình của tuổi học trò đang vờn quanh tôi.

  • KIM THOA

    Sao anh không về chơi Thôn Vỹ
    Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên        
          
                       (Hàn Mạc Tử)

  • NGUYỄN VĂN UÔNG

    Hôm nay có một người du khách
    Ở Ngự Viên mà nhớ Ngự Viên         
     

    (Xóm Ngự Viên - Nguyễn Bính)

  • HOÀNG THỊ NHƯ HUY

    Tôi biết Vân Cù từ tấm bé qua bóng hình người đàn bà gầy đen, gánh đôi quang gánh trĩu nặng trên vai, rảo khắp các xóm nhỏ ở Thành Nội, với giọng rao kéo dài: “Bún…bún…ún!” mà mẹ đã bao lần gọi mua những con bún trắng dẻo mềm.

  • LÊ QUANG KẾT                
                      Tùy bút

    Hình như văn chương viết về quê hương bao giờ cũng nặng lòng và giàu cảm xúc - dù rằng người viết chưa hẳn là tác giả ưu tú.

  • TỪ SƠN… Huế đã nuôi trọn thời ấu thơ và một phần tuổi niên thiếu của tôi. Từ nơi đây , cách mạng đã đưa tôi đi khắp mọi miền của đất nước. Hà Nội, chiến khu Việt Bắc, dọc Trường Sơn rồi chiến trường Nam Bộ. Năm tháng qua đi.. Huế bao giờ cũng là bình minh, là kỷ niệm trong sáng của đời tôi.

  • LÊ QUANG KẾT

    Quê tôi có con sông nhỏ hiền hòa nằm phía bắc thành phố - sông Bồ. Người sông Bồ lâu nay tự nhủ lòng điều giản dị: Bồ giang chỉ là phụ lưu của Hương giang - dòng sông lớn của tao nhân mặc khách và thi ca nhạc họa; hình như thế làm sông Bồ dường như càng bé và dung dị hơn bên cạnh dòng Hương huyền thoại ngạt ngào trong tâm tưởng của bao người.

  • HUY PHƯƠNG

    Nỗi niềm chi rứa Huế ơi
    Mà mưa trắng đất, trắng trời Thừa Thiên         
                          
                                              (Tố Hữu)

  • PHAN THUẬN AN

    Huế là thành phố của những dòng sông. Trong phạm vi của thành phố thơ mộng này, đi đến bất cứ đâu, đứng ở bất kỳ chỗ nào, người ta cũng thấy sông, thấy nước. Nước là huyết mạch của cuộc sống con người. Sông là cội nguồn của sự phát triển văn hoá. Với sông với nước của mình, Huế đã phát triển theo nguyên tắc địa lý thông thường như bao thành phố xưa nay trên thế giới.

  • MAI KIM NGỌC

    Tôi về thăm Huế sau hơn ba thập niên xa cách.Thật vậy, tôi xa Huế không những từ 75, mà từ còn trước nữa. Tốt nghiệp trung học, tôi vào Sài Gòn học tiếp đại học và không trở về, cho đến năm nay.

  • HOÀNG HUẾ

    …Trong lòng chúng tôi, Huế muôn đời vẫn vĩnh viễn đẹp, vĩnh viễn thơ. Hơn nữa, Huế còn là mảnh đất của tổ tiên, mảnh đất của trái tim chúng tôi…

  • QUẾ HƯƠNG

    Năm tháng trước, về thăm Huế sau cơn đại hồng thủy, Huế ngập trong bùn và mùi xú uế. Lũ đã rút. Còn lại... dòng-sông-nước-mắt! Người ta tổng kết những thiệt hại hữu hình ước tính phải mươi năm sau bộ mặt kinh tế Thừa Thiên - Huế mới trở lại như ngày trước lũ. Còn nỗi đau vô hình... mãi mãi trĩu nặng trái tim Huế đa cảm.

  • THU TRANG

    Độ hai ba năm thôi, tôi không ghé về Huế, đầu năm 1999 này mới có dịp trở lại, thật tôi đã có cảm tưởng là có khá nhiều đổi mới.

  • TUỆ GIẢI NGUYỄN MẠNH QUÝ

    Có lẽ bởi một nỗi nhớ về Huế, nhớ về cội nguồn - nơi mình đã được sinh ra và được nuôi dưỡng trong những tháng năm dài khốn khó của đất nước, lại được nuôi dưỡng trong điều kiện thiên nhiên vô cùng khắc nghiệt. Khi đã mưa thì mưa cho đến thúi trời thúi đất: “Nỗi niềm chi rứa Huế ơi/ Mà mưa xối xả trắng trời Trị Thiên…” (Tố Hữu). Và khi đã nắng thì nắng cho nẻ đầu, nẻ óc, nắng cho đến khi gió Lào nổi lên thổi cháy khô trời thì mới thôi.