Thời trước đó, những nhà thơ thường tự hào rằng mỗi khi mình thượng lên lưng con chiến mã thi ca và ra roi, là cứ thế băng băng trên những dặm dài, lòng không vướng bận những chuyện thường tình lắt nhắt của đời. Nhưng từ năm 1991, tình hình đã khác. Các nhà xuất bản bắt đầu ngại in những tập thơ bao cấp, bởi thị trường sách đã thay đổi. Không còn chuyện một tập thơ tầm tầm cũng có thể được in với ti-ra năm hay mười ngàn bản, và không biết tiêu thụ vào những đâu mà cũng hết veo! Thập niên cuối cùng của thế kỷ hai mươi chứng kiến cảnh những nhà thơ phải tay xách nách mang, vừa tự in vừa tự phát hành thơ mình. Đã xuất hiện những nhà thơ lang thang với một túi thơ to đùng, đi hết cơ quan này đến xí nghiệp khác, trổ tài thuyết khách cỡ Tô Tần Trương Nghi đế, với một mục đích khiêm nhường: "Xin anh (hay chị) mua giúp cho dăm tập thơ nhà giồng được". Nhiều lúc, người bán thơ phải cúi mặt, và người mua thơ thì chặc lưỡi: "Em cũng liều với bác, mua cho Công đoàn cơ quan làm phần thưởng cuối năm vậy!" Thơ rớt giá đến thế ư? Đúng và không đúng. Xưa nay, thơ chưa từng là mặt hàng kinh doanh. Ở ngay những nước phát triển nhất, trừ một ít nhà thơ có thể bán chạy được thơ mình nhờ những lý do trong và ngoài thơ, thì số nhà thơ đông đảo còn lại đều chỉ coi in thơ là để ... tặng, để chơi, và phải sống nhờ vào nhiều nguồn khác, trong đó có nguồn tài trợ của những Mạnh Thường quân. Nhưng không vì thế mà thơ mất giá, mà người ta coi thường thơ. Bởi phải tính thơ ở một khung giá trị khác, không cùng khung của kinh tế thị trường. Thơ là tiếng nói của tâm linh, tiếng nói của sự chiêm nghiệm nhiều khi là cả đời người, của nhiều đời người. Ở những tập thơ có giá trị cao, chúng có thể là "Kinh thánh của tâm hồn", là thứ không thể mua và không thể bán. Nhưng lại không thể thiếu cho con người. Hiểu điều ấy là có thể thanh thản mà sống với Thơ. Bây giờ cũng có những người in thơ lấy danh, in thơ để kiếm cái "cửu phẩm" - cái thẻ hội viên Hội Nhà văn - nhưng có thể số "nhà thơ kinh tế thị trường" ấy không nhiều. Nhiều hơn, là những nhà thơ coi thơ là nghiệp, những người làm thơ coi thơ là tiếng nói nội tâm, là khoảnh khắc phát lộ của mình với thế giới. "Phải có danh gì với núi sông" - ở đây phải hiểu chữ danh của cụ Nguyễn Công Trứ một cách sâu xa hơn, phổ quát hơn. Con người khát khao in một dấu ấn nào đó của cuộc tồn sinh ngắn ngủi của mình vào dòng đời có vẻ bất tận kia. Đó là một khát khao cao đẹp, từ đó mới nảy ra biết bao sáng tạo, biết mấy hy sinh, cơ man là thất bại - những thất bại trong danh dự. Mười năm thơ Việt cuối thế kỷ là mười năm có những chuyển động ngầm, như những khối sóng dưới lòng sông sâu, những chuyển động có một bề nổi hòa hoãn nhưng một bề chìm quyết liệt, nhiều lúc không khoan nhượng. Có thể coi điểm mở đầu của thập kỷ vừa qua là một tập thơ "lạ" tập "Bến lạ" của Đặng Đình Hưng. Khác với bóng đá, một cầu thủ chỉ có thể cống hiến cho nghệ thuật của trái bóng tròn tối đa là tới 40 tuổi, trong thơ, một nhà thơ có thể hoàn thành sự nghiệp của mình vào năm 17 tuổi như Rimbaud, lại có thể phát lộ tài thơ khi đã tuổi lục tuần hay tuổi thất thập cổ lai hy". Đặng Đình Hưng là nhà thơ "chín muộn" như thế, muộn đến nỗi ít ai trông đợi trái quả thơ này sẽ chín trước khi lìa cành. Vậy mà Đặng Đình Hưng đã có một "Bến lạ", một "Ô Mai" trước khi từ giã cõi trần. Tập thơ "Bến lạ" được in ra một cách lặng lẽ, với ti-ra 500 bản, không hề bán, nhưng người sành thơ, mới đọc đã biết ngay đây là một thứ quả quí, dù lạ. Tập thơ đã đi ra ngoài những đường những lối thường gặp trong thơ Việt lâu nay, nhưng nó lại nhấn vào tâm can người đọc, dù là người ít chuyên môn về thơ, một cái gì tựa như alcool, lạnh và cháy bỏng. Một chiêm nghiệm, một nếm trải suốt một đời người được thể hiện dưới một hình thức hoàn toàn tự do, có vẻ như bất chợt, không bố cục, không cấu trúc, không dàn dựng, đúng như những ngẫu nhiên va đập của cuộc đời mà tác giả phải nếm chịu. Hành trình về "bến lạ" của Thơ, với Đặng Đình Hưng, là một hành trình đau khổ, "đi qua những đau khổ" - nhưng toàn tập thơ lại như lời bập bẹ của trẻ thơ, hồn nhiên đến khiến ta phải rơi nước mắt. Có thể, thơ văn xuôi, thơ tự do không còn là mới trên thế giới này, cả với Việt cũng vậy. Nhưng thơ tự do, thơ văn xuôi của mỗi nhà thơ, của một cá nhân, một cá tính sáng tạo, thì luôn luôn mới. Mỗi thời đại có nghệ thuật của nó. Người làm thơ bây giờ có thể sáng tác với tất cả thể loại thơ khác nhau, kể cả thơ Đường luật, thơ lục bát. Nhưng dường như, thời đại này thích hợp nhất với thơ tự do, mà đỉnh cao của nó là thơ văn xuôi. Bởi nhu cầu thuộc thơ, nhớ thơ từng bài, nhiêù bài bây giờ không phải là yêu cầu số một nữa. Thời đại tin học đã có đủ phương tiện máy móc để làm việc lưu giữ, có đủ những "bộ nhớ" vĩ đại để nhớ bằng hết những gì cần nhớ. Trong khi, đọc một bài thơ văn xuôi, quả thật người có trí nhớ tốt cũng thấy khó nhớ, khó thuộc. Nhưng cần gì, miễn bài thơ ấy tác động đến tâm hồn anh, đến cảm xúc của anh, nó đảo lộn được một cái gì đó vốn đều đặn trong anh, nó làm "lệch kim" cái đồng hồ thói quen của anh, vâỵ là đạt rồi, thỏa rồi. Có thể nói, bắt đầu thập kỷ chín mươi, tập thơ "Bến lạ" đã khơi luồng cho một "bến mới" để từ đó "ra khơi" một số tập thơ khác, một số nhà thơ khác. Sự ảnh hưởng trong văn học là chuyện bình thường, miễn là ảnh hưởng tích cực đến cá tính sáng tạo, không làm nhòe mờ đi những cá tính sáng tạo khác nhau. Sang năm 1993, tập thơ "Người đi tìm mặt" của Hoàng Hưng lại khơi lên một ít tranh cãi, nhưng nhiều người đọc đều công nhận những tìm tòi trong tập thơ này phát xuất từ tâm huyết, từ những trải nghiệm rất cá nhân và không còn là của một cá nhân. Những gì Hoàng Hưng phải chịu đựng để từ đó có thơ, là những gì mà bất cứ người bình thường nào cũng không hề muốn có cho mình, nhưng lại đều có thể phải trải qua. "Với nhà thơ chúng ta - phẩn thưởng - chính là số phận mình" Một nhà thơ Nga đã viết như vâỵ. Thật chí lý. Với tập thơ của Hoàng Hưng, câu nói ấy cũng thích hợp. Tình yêu tha thiết và đầy dâng hiến với Thơ, những chịu đựng vì Thơ đã khiến những tìm tòi của Hoàng Hưng mang sức nặng của chính đời sống mà anh đã nếm trải. Luôn luôn, thơ là những tự tìm đường cho mình, và niềm hạnh phúc của một nhà thơ là viết được những câu thơ không giống ai, dù "ai" đó là những bậc thầy. "Người ta yêu những người cố mở đường mà thất bại, yêu những người biết thất bại mà dám mở đường. Bởi vì, những người đó đã nghĩ đến sự tiến bộ của Nghệ thuật. "Văn Cao đã viết như vậy từ thập kỷ 50, và tuyển tập "Văn Cao Thơ" của ông được in năm 1994 đã chứng tỏ những gì ông nghĩ từ 40 năm trước là đúng, ít nhất là đúng với chính thơ ông.Chỉ có điều, thơ Văn Cao đã không thất bại, dù nó kiên quyết không đi theo những lối mòn. Văn Cao đã không chịu sửa thơ không vần của mình thành thơ có vần cho "theo kịp thời đại" như ai đó đã làm. Văn Cao cứ viết bằng tất cả xúc cảm, tất cả chiêm nghiệm của mình, với một hình thức biểu đạt thoải mái nhất, tối giản nhất có thể được. Không rậm rạp, không màu mè, chẳng bày biện, thơ Văn Cao đi thẳng tới mỗi người đọc, chìa cho người đọc bàn tay chân tình không một chút so đo. Thơ ông đã được đón nhận cũng một cách chân tình và giản dị đúng như cách ông đã bằng thơ của mình đi tới với mọi người. Năm 1994 cũng là năm "tái xuất hiện" tập thơ "Về Kinh Bắc" của Hoàng Cầm. Gọi "tái xuất hiện" vì trước đó nhiều năm, tập thơ chép tay này đã được đón đọc bởi không ít người, nhất là trong giới làm thơ với nhau. Hoàng Cầm với thơ của mình là một "kênh" riêng. Thơ ông ám vào đời ông, và đời ông ám vào thơ ông, những ám ảnh đâỳ cảm giác, đầy ma mị, những trạng thái xuất hồn, những tiếng kêu nghẹn ngào bị chìm khuất, dòng quan họ như tơ trời giăng mắc, vẻ mềm mại đến phải ngờ vực của một hồ nước trong không thấy đáy. Góp một tiếng nói rất riêng dù rất "đậm đà bản sắc dân tộc" vào thơ Việt hiện đại, Hoàng Cầm đã có thể bình thản nghe nhịp dòng đời trôi qua con phố nhỏ nơi mình cư trú. Và Trần Dần với trương ca "công tỉnh", với tập thơ "Mùa sạch" được in khi ông đã qua đời, Trần Dần một con hổ trong thơ mà những cú quật đuôi nghe như gió rít bên tai. Trần Dần thà đi quá chứ không chịu đi nửa vời, quyết tìm đến những đường biên mông lung của lời chữ Việt, thanh điệu Việt. Những tìm tòi của ông không phải thảy đều thành công, nhưng chúng kêu gọi người làm thơ tự phá bỏ những thói quen ngôn ngữ vây bủa mình bao lâu nay, cùng dấn bước vào cái chưa biết, vào những lối đi mới không có nhiều hứa hẹn nhưng lại đầy cảm khái của người vượt những ba-ri-e hữu hình và vô hình. Năm 1994 cũng ghi nhận sự xuất hiện của tập thơ "Sự mất ngủ của lửa" của Nguyễn Quang Thiều, một nhà thơ không trẻ nhưng chưa già và không muốn đưa thơ đi theo những lối mòn. Gọi thơ Thiều là đổi mới so với thơ Việt thời điểm ấy cũng đúng, nhưng gọi đó là thơ cách tân thì chưa phải. Bởi sự đổi mới ở đây chưa phải thật sự từ gốc rễ, từ căn cốt của nhà thơ, mà nhiều khi còn ở bên trên hay bên ngoài. Dù sao, thơ Nguyễn Quang Thiều cũng đã ảnh hưởng tới một số nhà thơ trẻ, ảnh hưởng tích cực lẫn tiêu cực. Một vài nhà thơ trẻ bắt đầu làm theo kiểu "tùm lum" mà cứ tưởng là sáng tác theo dòng ý thức hay vô thức. Một số khác lại tăng cường "nhập khẩu" một số kỹ thuật thơ Phương Tây theo kiểu nhập IKD xe gắn máy rồi hì hục lấp ráp tại quê nhà thành sản phẩm thơ mang nhãn hiệu HONGDA hay MACHE gì đó. Nhưng thơ lại không đơn giản vậỵ, nếu người ta biết nhiều khi trong quá khứ có người chỉ vì một câu thơ một bài thơ mà mất mạng. Làm thơ bây giờ an toàn hơn, nhưng không vì thế mà có thể cho ra những sản phẩm quá ít tốn tâm huyết. Mà để làm cơ chứ? Những năm cuối thế kỷ 20 với rất nhiều biến động trong chính trị, trong kinh tế, trong khoa học kỹ thuật, nhưng lại không có nhiều biến động trong thơ. Đã hình thành một đội ngũ những nhà thơ trẻ ở Việt
|
NGUYỄN DƯƠNG CÔNĐề tài và chủ đề là hai trạng thái cơ bản nhất, bao dung hết thảy làm nên cấu trúc tổng thể tác phẩm tiểu thuyết. Hai trạng thái đó trong liên kết tương tác gây dẫn nên tất cả những yếu tố ý nghĩa nội hàm tiểu thuyết. Chúng còn đồng thời gây dẫn nên những yếu tố ý nghĩa liên quan nảy sinh trong tư duy tiếp nhận ngoài ý nghĩa nội hàm tiểu thuyết. Nhưng dẫu có như thế, chỉ có thể hình dung cho đúng đắn được đề tài, chủ đề theo định hướng duy nhất thấy chúng trong cấu trúc nội bộ tổng thể tác phẩm tiểu thuyết.
NGUYỄN HỒNG DŨNGQuá trình “hiện đại hoá” văn học Việt Nam giai đoạn 1932 - 1945 diễn ra dưới sự tác động trực tiếp của văn học phương Tây. Gần một thế kỷ nay, khi nghiên cứu những tác động từ bên ngoài vào Việt Nam giai đoạn này các nhà ngữ văn chỉ chủ yếu nhấn mạnh đến ảnh hưởng của văn học Pháp. Trong bài viết này, chúng tôi đề cập đến ảnh hưởng của nhà thơ Mỹ Edgar Poe đối với Hàn Mặc Tử, một đỉnh cao của phong trào “thơ mới”.
PHẠM PHÚ PHONG Tiểu thuyết, đó là một trong những sáng tạo kỳ diệu của con người, đó là một đồ dùng, một vũ khí của con người để tìm hiểu, chinh phục dần thế giới và để tìm hiểu nhau và sống với nhau. Nguyễn Đình Thi
PHONG LÊ(Trích - Nhìn từ các mục tiêu của công việc “viết”)
NGÔ TỰ LẬPTrong thời gian làm luận án ở École Normale Supérieure de Fontenay/ Saint Cloud , tôi được nghe một câu chuyện thú vị. Trong nhà giam nọ, đám tù khổ sai, sau mỗi ngày lao động như trâu ngựa dưới đòn roi của cai ngục, chỉ có một thú tiêu khiển là nghe một người trong bọn họ kể chuyện tiếu lâm.
HỒ THẾ HÀTrần Vàng Sao là nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ. Thơ anh là tiếng nói giàu nhiệt huyết, xuất phát từ đáy lòng, hướng đến mọi người bằng giọng điệu giãi bày, tâm tình, chia sẻ. Anh sáng tác không nhiều, nhưng mỗi tác phẩm của anh để lại dấu ấn thi pháp độc đáo, đặc biệt ở việc xây dựng tứ thơ và kiến trúc bài thơ, ở hình ảnh và sức liên tưởng bất ngờ.
NGUYỄN HUỆ CHI Trần Thanh Mại (1908-1965) là một nhà văn xứ Huế, một tên tuổi trong giới nghiên cứu, phê bình và sáng tác từ trước Cách mạng tháng Tám. Những cuốn sách ông viết rải rác trong vòng 30 năm như Tuy Lý vương, Hàn Mạc Tử, Trông giòng sông Vị, Tú Xương con người và nhà thơ... đã từng gây được ấn tượng lúc mới ra đời và đến nay vẫn còn nhiều phần giá trị. Những phát hiện của ông về Hồ Xuân Hương, Miên Thẩm đã từng gây xôn xao một thời mà sự tiếp nối của người sau cũng chưa thể nói là đã vượt qua.
ĐẶNG TIẾNTừ điển Nghệ Thuật Hát Bội Việt Nam do Giáo sư Nguyễn Lộc chủ biên, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, ấn hành năm 1998, gồm non 700 trang khổ lớn 15x23cm, in đẹp, bìa cứng tổng hợp đầy đủ kiến thức về ngành ca kịch hát bội, còn gọi là hát bộ, hay tuồng, hay tuồng cổ.
THÁI DOÃN HIỂUGiữa ngổn ngang những dữ kiện, con số, tiền nong, ngành Ngân hàng Việt vẫn hào hiệp tặng cho thi đàn ra một hồn thơ tinh tế: Nguyễn Ngọc Oánh.Trong thi sĩ Nguyễn Ngọc Oánh có hai con người: một trẻ và một già!
NGÔ ĐỨC TIẾNNăm 1989, báo Văn nghệ tổ chức cuộc thi thơ kéo dài trong 2 năm, tôi có gửi 5 bài thơ dự thi. Thơ gửi đi rồi, chưa mong được giải, chỉ mong được in báo Văn nghệ một vài bài vì trước đó tôi cũng đã nhiều lần gửi báo Văn nghệ nhưng chỉ được in một bài thơ “Giọng Nghệ”.
TRẦN THÁI HỌC(Nhân đọc Sông Hương phê bình và đối thoại - Nxb văn hoá thông tin - 2003)
MAI BÁ ẤNNgoài sáng tác, hơn mười năm trở lại đây, Thanh Thảo còn xuất hiện với tư cách là một người viết tiểu luận - phê bình được bạn đọc rất chú ý bởi giọng văn sắc sảo với những phát hiện độc đáo, mới mẻ. Nhìn chung, phong cách viết tiểu luận-phê bình của Thanh Thảo khá nhất quán nhằm mục đích tìm ra cái hay cái độc đáo của tác phẩm văn học mà không ồn ào tranh luận, không nặng nề về lý thuyết nhưng có độ bền về tính triết lý.
NGUYỄN DƯƠNG CÔNPhê bình văn học là một hình thái vận động của đời sống văn hóa văn học. Nó không phải là một thể loại văn học. Nó gắn bó huyết mạch tất yếu với vận động sáng tạo - hưởng thụ văn học.
HƯƠNG GIANG - PHẠM PHÚ PHONGLịch sử nói chung phán xét những gì đã qua, nhưng lịch sử nghệ thuật thì phán xét những gì còn lại. (Thái Bá Vân)
VÕ TẤN CƯỜNGCon đường của thi ca và cái nhìn của nhà thơ thời hiện đại đang hướng tới tầm cao mới và cả chiều sâu thẳm bí ẩn của vô ngã ẩn khuất dưới bao biến động dữ dội của những thể chế chính trị, giáo lý và các phát minh khoa học kỹ thuật.
PHONG ĐIỆPXã hội hoá giải thưởng - và chuyện kiếm tiền “nuôi thơ” thời bão giá
CHÂU MINH HÙNGLối viết chỉ là Tự do trong một khoảnh khắc. Nhưng đó là một trong những khoảnh khắc có ý nghĩa nhất của Lịch sử, bởi Lịch sử luôn luôn và trước hết là một lựa chọn và những giới hạn của lựa chọn ấy. (R. Barthes, Độ không của lối viết)
TRẦN THIỆN KHANHTích nhân/ dĩ thừa/ hoàng hạc khứThử địa/ không dư/ Hoàng Hạc lâuHoàng hạc/ nhất khứ/ bất phục phảnBạch vân/ thiên tải/ không du du…
PHẠM THỊ THÚY VINHThơ Lâm Thị Mỹ Dạ rất giàu hình ảnh. Thế giới hình ảnh trong thơ chị vừa đậm sắc màu hiện thực, ngồn ngộn hơi thở cuộc sống vừa mang tính biểu tượng cao. Điều đó đã thể hiện tài năng và sự khéo léo của nhà thơ, nhằm làm cho những bài thơ của mình không chỉ dừng lại ở những lời thuyết lí khô khan, trừu tượng. Thế giời hình ảnh bao giờ cũng gợi ra trong trí tưởng tượng của người đọc nhiều liên tưởng bất ngờ và thú vị, làm cho lời thơ thêm mượt mà, trong sáng.
NGUYỄN DƯƠNG CÔN (Tiếp Sông Hương số 11-2008)Bản thể con người chỉ cấu trúc bằng cảm giác và những gì là biến tướng khả dĩ của cảm giác mà không từ bỏ cấu trúc thiên định bao gồm kết cấu thực và kết cấu ảo của cảm giác. Nếu hình dung kết cấu thực là trạng thái mô phỏng thế giới, nghĩa là cái quan hệ hấp dẫn giữa xung động thần kinh não bộ con người với xung động tiếp nhận thế giới, thì chúng ta hình dung được kết cấu ảo chỉ là sản phẩm thuần tuý do xung động nội tại của thần kinh não bộ con người.