Mười lăm phút tiếp chuyện công dân Vĩnh Thụy sau ngày thoái vị ngôi vua (31-8-1945)

10:42 09/10/2008
LÂM QUANG MINHSau bao nhiêu sự kiện và bộn bề công việc cuốn hút anh em Thanh niên tiền tuyến chúng tôi trong những ngày lịch sử sôi sục khởi nghĩa Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở Thừa Thiên - Huế, có một câu chuyện mà suốt 60 năm qua tôi chưa có dịp nào chia sẻ và kể lại cho anh em bè bạn nghe. Đó là cuộc gặp gỡ tình cờ và câu chuyện trao đổi ngắn ngủi giữa hai công dân - một bên là tôi, một bên là công dân Vĩnh Thuỵ - ngay sau ngày lễ thoái vị ngôi vua hôm trước.

Số là sau cuộc mít tinh chào mừng phái đoàn Chính phủ Cách mạng lâm thời, chứng kiến lễ thoái vị và trao ấn kiếm của vua Bảo Đại cho đại diện Chính phủ vào ngày 30 - 8 - 1945, một số anh em TNTT, trong đó có tôi, được phân công vào canh gác trong Đại nội. Đây là một dịp hiếm có, không dễ gì ai cũng được vào tận Hoàng cung, nên mọi người đều náo nức, chọn bộ quân phục mới nhất, nai nịt chỉnh tề, chân đi ghệt, giày láng bóng, calô đội lệch trên đầu, thay khẩu mút-cơ-tông cổ lỗ sĩ bằng khẩu cacbin hay khẩu Brâuning Canada mới toanh vừa mới tước của 6 tên sỹ quan Pháp mấy hôm trước, trông ai nấy oai vệ như những chàng  ngự lâm pháo thủ trong sách truyện Pháp (mà nào đã ai biết ngự lâm pháo thủ họ ăn mặc ra sao?).

Tôi được phân công gác ở một Điện, nếu tôi không nhớ nhầm thì đó là Điện Kiến Trung. Còn đang đi lại nhìn cảnh vật xung quanh thì thấy một bóng người từ trong Điện đi ra, mặc bộ pigiama kẻ sọc, chân đi dép lê, từ từ tiến lại gần tôi. Tôi nhận ra ngay là người đã đọc bức thư thoái vị ngôi vua hôm qua, Hoàng đế Bảo Đại, nay chỉ còn là công dân Vĩnh Thụy. Thoáng một cái trong đầu tôi tự hỏi: xưng hô như thế nào đây: bẩm hay thưa? Ngài hay ông? Tôi chọn ngay: thưa ông.
Thấy tôi trong tư thế đứng nghiêm, ông Vĩnh Thuỵ chủ động hỏi bằng tiếng Pháp: - Pardon, qu’ est ce que vous faites ici? (xin lỗi, anh làm gì đấy?). Một thoáng phân vân, nên trả lời bằng tiếng Pháp hay tiếng Việt? Tôi chọn ngay tiếng Việt: - Thưa ông, chúng tôi được phân công vào canh gác để đảm bảo trật tự an toàn trong Hoàng cung.
Thấy tôi hiểu và trả lời rành rọt, Vĩnh Thuỵ chuyển sang nói tiếng Việt pha lẫn tiếng Pháp, lơ lớ giọng Huế: - Merci - Très bon (cảm ơn - tốt lắm). Anh ăn mặc đẹp lắm - Très élégant (phong độ lắm). De quelle unité? (thuộc đơn vị nào?).
Tôi trả lời: - Xin cảm ơn lời khen của ông. Chúng tôi là những sinh viên trường TNTTdo hai ông Phan Anh và Tạ Quang Bửu trong chính phủ Trần Trọng Kim đứng ra thành lập - nay là lực lượng vũ trang cách mạng của Uỷ ban Cách mạng lâm thời tỉnh Thừa Thiên Huế (sợ Vĩnh Thuỵ không hiểu rõ tôi dịch đoạn cuối ra tiếng Pháp: Maintenant nous sommes des forces armées révolution naires à la disposition du Comité révolutionnaire temporaire de Thừa Thiên - Huế).
Nghe nhắc đến trường TNTT, Vĩnh Thuỵ gật đầu: - Tôi có được ông Ngự tiền văn phòng Phạm Khắc Hoè bẩm báo lên về ngôi trường này.
Bỗng như sực nhớ ra việc hạ cờ quẻ ly xuống, kéo cờ đỏ sao vàng lên đỉnh cột cờ trước cửa Ngọ môn ngày 21-8, Vĩnh Thuỵ vặn hỏi:
- Có phải hai người ra lệnh kéo cờ Cách mạng trước đây ở Ngọ môn là bạn TNTT của các ông không?
Đúng là cách đây mươi hôm, ngày 21-8, hai anh TNTT Đặng Văn Việt và Nguyễn Thế Lương được đồng  chí Trần Hữu Dực trong Uỷ ban lâm thời Tỉnh uỷ Thừa Thiên - Huế giao nhiệm vụ tìm mọi cách hạ cờ quẻ ly của Nam Triều xuống, kéo cờ đỏ Cách mạng lên đỉnh cột cờ trước Ngọ môn. Hai anh đã khôn khéo thuyết phục và trực tiếp chỉ huy tiểu đội lính bảo vệ Kỳ đài hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Và tôi đã trả lời:
- Thưa ông, đúng là có hai anh bạn TNTT chúng tôi, theo lệnh cấp trên đã làm việc đó?
Và như để thăm dò phản ứng của Bảo Đại hôm ấy ra sao, tôi đặt câu hỏi:
- Thưa ông, hôm đó cấp dưới có bẩm báo lên ông sự việc ấy không? Và ý kiến ông như thế nào?
Ông ta không trả lời ngay mà đắn đo một lát mới nói:
- Hôm đó ông lãnh binh có bẩm với tôi, tôi có nói với ông ta rằng: Họ là người của Việt Minh đấy. Cứ để cho họ làm. Ta không cản trở được họ đâu.
Đúng là trong những ngày ấy, khí thế cách mạng sôi sục, uy tín Việt Minh mạnh mẽ khiến Hoàng đế cũng phải chịu bó tay.
Về sự kiện này, về sau trong bút ký của Đặng Văn Việt có một chi tiết lý thú, bộc lộ tâm trạng hoang mang bối rối của Bảo Đại trong thời khắc ấy: Trong buổi lễ thoái vị 30-8, tình cờ Đặng Văn Việt gặp viên lãnh binh chỉ huy đội cận vệ Hoàng gia (đội lính khố vàng). Ông ta bộc bạch: “Hôm nọ hai ông ra lệnh hạ cờ vua treo cờ Cách mạng lên cột cờ lớn. Thi hành nhiệm vụ bảo vệ Hoàng cung, tôi đã cho đại đội nằm rạp dọc thành cửa Ngọ môn, chĩa súng vào hai ông. Xin ý kiến Hoàng đế, ngài thét lên và bảo: Chớ, chớ, Việt Minh đấy, các người mà nổ súng thì Trẫm chết trước đó”...).
Trở lại câu chuyện giữa tôi và Vĩnh Thuỵ: Nhân nhớ đến buổi lễ thoái vị hôm trước, tôi nói:
- Hôm qua tôi rất thích bức thư Ngài đọc (lại là Ngài, tôi vẫn chưa quen với từ “ông”) bài văn ngắn gọn, ý tứ sâu sắc (ý tôi muốn nhắc đến câu: Thà làm dân một nước độc lập còn hơn làm vua một nước nô lệ). Có phải do Ngài tự mình viết hay qua một người khác dự thảo (thâm tâm tôi vẫn không tin là Bảo Đại có thể một mình nghĩ và viết nổi).
Lần nay ông ta thành khẩn bộc lộ, vẫn giọng cả Tây lẫn Ta:
- Jusqu’ ici, tous papiers (từ trước đến nay mọi văn bản giấy tờ) đều do ông Hoè viết rất tốt. Tôi rất phục ông ta. Lần này cũng vậy, tous est conforme à mes réflexions (tất cả đều phù hợp với suy nghĩ của tôi)...
... Tôi còn muốn hỏi ông nhiều chuyện nữa, nhưng không tiện kéo dài thời gian, vi phạm điều lệnh canh gác của quân nhân (như thế này cũng đã vi phạm rồi còn gì). Đang tìm cách rút khỏi câu chuyện, thì Vĩnh Thụy chủ động hỏi:
- Pardon, attendez moi une minute (xin lỗi, chờ  tôi một phút)
Ông ta vội vã vào nhà, đem ra tặng tôi một hộp nhỏ gọi là kỷ niệm cuộc gặp gỡ tình cờ, ngắn ngủi hôm nay.
Tôi đứng nghiêm, nhận quà, nói lời cảm ơn và lời từ biệt xã giao, hẹn ngày gặp lại, mà không tiện bắt tay.
Giở ra mới biết là trong hộp xinh xắn đó có bản đồ thành phố Hà Nội thu nhỏ, có in chi tiết cụ thể từng đường phố, từng vật thể rất sắc nét. Sau này, năm 1952, từ Liên khu 5 lặn lội ra dự chỉnh huấn chính trị và bổ túc quân sự ở chiến khu Việt Bắc, mừng rỡ gặp lại Nguyễn Thế Lương (Cao Pha) tôi tặng lại anh ta tập bản đồ đó, để ngày về tiếp quản Thủ đô có mà dùng đỡ lớ ngớ. Cho đến bây giờ không biết Cao  Pha có còn giữ nó không?

... Thú thật, qua tiếp xúc bề ngoài ban đầu ngắn ngủi với Vĩnh Thuỵ, tôi có một chút cảm tình với ông ta, cho là trong ông ta còn có một chút lương tri đang thức tỉnh, còn chút tinh thần dân tộc đang được khơi dậy, với sức mạnh giác ngộ cải tạo to lớn của Cách mạng, lại được may mắn gần gũi Bác Hồ mà ông ta kính phục coi như cha (theo thư ông ta gửi về Huế cho mẹ và vợ là bà Từ Cung và bà Nam Phương), hy vọng ông ta sẽ từng bước cải tạo thành người công dân lương thiện có ích cho xã hội xứng đáng là hậu duệ của Hàm Nghi, Thành Thái, Duy Tân.
Nhưng, như chúng ta đã biết, ông ta đã phản bội lại lời thề thiêng liêng trước Tổ quốc, cam tâm trở lại làm tay sai cho Pháp lần nữa (1949-1956) để rồi cuối cùng bị Mỹ Diệm hất cẳng, thất cơ lỡ vận, sống lưu vong vất vưởng trên đất Pháp, bạn bè xa lánh, vợ con ruồng bỏ, cho đến khi chết (1997).
Suy cho cùng, lời thề ta cho là thiêng liêng mà Bảo Đại trịnh trọng đọc trong buổi lễ thoái vị đâu có phải xuất phát từ trong tâm khảm của ông ta đâu, mà chỉ là sản phẩm “lời hay ý đẹp” của  ông Ngự tiền văn phòng Phạm Khắc Hoè mớm cho ông ta đọc mà thôi.
Đà Nẵng, 2007
L.Q.M

(nguồn: TCSH số 223 - 09 - 2007)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • LÊ QUANG THÁIXem chừng cái cổng gỗ vừa bình dị vừa cổ kính ở đường Nguyễn Công Trứ có tiền thân là đường Chợ Cống, trong khoảng hơn 100 năm trở lại, lần lượt thay đổi địa chỉ theo một loạt mã số 21, 27, 29, 31, 33, 47, 63... như đã nói lên tiếng lòng của dân gian trước tốc độ phát triển nhanh chóng của đô thị Huế.

  • VÕ QUÊLTS: Hoạ sĩ Dương Đình Sang, sinh năm 1950 tại Huế, nguyên giảng viên Đại Học Nghệ thuật Huế, hội viên Hội Mỹ thuật Việt Nam, hội viên Hội Liên Hiệp VHNT TT.Huế, mất ngày 18 tháng 10 năm 2005.Dù trái tim hoạ sĩ đã ngừng đập nhưng tình yêu và khát vọng Cái Đẹp vẫn còn sáng mãi trong sự nghiệp sáng tạo của ông.

  • LTS: Nhà thơ Trần Hữu Tâm Phương, sinh năm 1949 tại Huế, hội viên Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế, mất ngày 21 tháng 10 năm 2005. Bài viết sau đây của Hạnh Lê sẽ giúp bạn đọc hiểu thêm về nhà thơ Trần Hữu Tâm Phương.

  • BÙI MINH ĐỨC...Vua Minh Mạng (1791-1841) lúc sinh thời đã có đến 43 bà phi tần nhưng người vợ đầu tiên của vua là bà Hồ Thị Hoa (1791-1807). Bà nầy là một người hiếu đức hiền thục và cũng là con của một công thần nên Bà đã được Vua Gia Long và Thuận Thiên Hoàng Hậu tuyển chọn đưa vào cung Tiềm để hầu hạ cho Hoàng tử con mình...

  • TRẦN HOÀNGThật là thú vị khi được đọc bài “Như thế nào thì được gọi là người Huế?” của nhà văn Nguyễn Khắc Phê (Sông Hương số 187 tháng 9/2004) và bài “Người Huế, anh là ai?” của nhà giáo – dịch giả Bửu Ý (Sông Hương số 188 tháng 10/2004). Hai anh Nguyễn Khắc Phê, Bửu Ý, người quê xứ Nghệ, người gốc xứ Huế, trong bài viết của mình, dù cách viết, cách kiến giải có khác nhau, nhưng đều tập trung bàn luận, “xác định tính cách Huế, đặc tính người Huế”.

  • DUY PHITriều Nguyễn có nhiều nhà thơ lớn. Có một tác giả thơ xuất sắc thời ấy, song trên một trăm năm qua còn ít người biết đến, đó là Hoàng Văn Hoè (1848-?).Ông hiệu Cổ Lâm, quê gốc làng Phù Lưu, Tiên Sơn, Bắc Ninh, vốn thông minh từ nhỏ, bảy tuổi đã đọc Hán thư, có tài thơ văn, ông đỗ tiến sĩ năm Tự Đức thứ 33 (1880), năm sau lại đậu khoa Yêm bác - chuyên về văn chương. Ông làm quan đến Thị độc, sau ra làm tri phủ Kiến Xương, Thái Bình.Cuộc đời của Hoàng Văn Hoè là một bài ca đầy bi tráng.

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂNTố Hữu không những là một nhà thơ mà còn là một lãnh tụ chính trị được cán bộ và chiến sĩ rất trọng vọng. Nhiều lúc tôi có cảm giác trong tình cảm cán bộ: sau Bác Hồ là đến “Anh Tố Hữu”. Nghe thơ không những người ta tìm cái hay của thơ mà còn tìm ý kiến chỉ đạo cách mạng của ông Tố Hữu trong thơ nữa.

  • NGUYỄN TỐNGNguyễn Khoa Điềm khẳng định chân lí bằng một trực cảm thiên tài để lí giải một cách cụ thể sinh động về sự khởi nguyên và phát triển của đất nước qua hình tượng miếng trầu, cây tre. Những hình tượng bình thường quen thuộc trong đời sống của nhân dân Việt Nam, nhưng mãi cho đến khi Nguyễn Khoa Điềm phát biểu, cái chân lí ngỡ là hiển nhiên đấy, người đọc lắng lại một khoảnh khắc, sau đó ngớ ra bao điều thú vị...

  • NGUYỄN THỤY KHAĐàn ngựa cuồng phong lồng về Hà Nội một đợt mưa rét lạnh. Gió thổi mạnh vào khuya khiến lòng người chợt trắc ẩn, thao thức. Có cảm giác như phía Phủ Doãn có một người đang đi trong "Gió nghiêng chiều say, gió lay ngàn cây, gió nâng thuyền mây, gió reo sầu miên, gió đau niềm riêng, gió than triền miên". Ngỡ như ai đó huýt gió giai điệu "Đêm đông" trên đường đêm nơi ngày nào Nguyễn Văn Thương bắt đầu cảm hứng cho tình ca nổi tiếng ấy. Một thoáng mong nhớ về người nhạc sĩ tài năng này.

  • NGÔ KHAPháo đài Láng đi vào lịch sử kháng chiến của thủ đô Hà Nội và của dân tộc ta như một sự tích anh hùng. Khai hỏa loạt đạn đầu tiên bắn vào thành Hà Nội, mở màn cuộc kháng chiến toàn quốc chống xâm lược.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ(Nhân kỷ niệm 140 năm sinh cụ Phan Bội Châu 26/12/1867-26/12/2007)                            1. Sau phiên toà đại hình mở tại Hà Nội ngày 23/11/1925 kết án khổ sai chung thân cụ Phan Bội Châu, trước sức ép của dư luận trong nước và quốc tế, toàn quyền Pháp Varenne buộc phải ra lệnh “ân xá” và đưa Cụ về “an trí” tại Huế.

  • TRƯƠNG THỊ CÚC * Như cá lội tung tăng trong nước, không hề biết mình bơi bằng cách nào, đôi lúc người Huế cũng sống hồn nhiên, không cảm nhận một cách rạch ròi về tính cách Huế, về yếu tính của một vùng đất mà mình đã sinh ra, lớn lên và một đời gắn bó máu thịt.

  • TRẦN NGUYỄN KHÁNH PHONGLTS: Tháng Mười, tháng kỷ niệm 72 năm ngày thành lập Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam (20.10.1930 – 20.10.2002), Sông Hương giới thiệu với bạn đọc một khuôn mặt phụ nữ Huế nổi danh từ đầu thế kỷ XX, người từng được cụ Phan Bội Châu cho lập miếu thờ và gọi là Ấu Triệu.

  • BỬU NAMBửu Chỉ là một cái tên không xa lạ với những ai ở miền Nam trước 1975. Anh là người hầu như duy nhất vẽ tranh về đề tài chiến tranh và hoà bình.Tên tuổi và tranh bằng bút sắt, mực đen của anh đã sóng đôi cùng với những ca khúc phản chiến và khát vọng hoà bình của cố nhạc sĩ tài hoa Trịnh Công Sơn - một người con yêu của xứ Huế đã làm rạng rỡ vùng đất đã sinh ra mình.

  • TÔN NỮ HỶ KHƯƠNG(Trích tham luận trong Hội thảo kỷ niệm 120 năm ngày sinh Ưng Bình Thúc Giạ Thị tổ chức tại Huế)

  • TRỊNH CÔNG SƠNTrong những năm chiến tranh ác liệt nhất ở miền Nam, nếu ở địa hạt âm nhạc tôi viết những ca khúc phản chiến và khát vọng hòa bình thì ở phía hội họa, họa sĩ Bửu Chỉ gần như là người duy nhất vẽ rất nhiều về đề tài chiến tranh và hòa bình. Anh nổi tiếng vào thời ấy với những tranh nhỏ trên giấy vẽ bằng bút sắt với mực đen. Tranh anh được in trên các tạp chí nước ngoài và gây được một dư luận rộng rãi.

  • HỒ THẾ HÀLTS: Để ghi nhận những công lao to lớn của văn nghệ sĩ trong sự nghiệp xây dựng nền văn học nghệ thuật Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta đã dành nhiều giải thưởng cao quý tặng cho những công trình văn học - nghệ thuật xuất sắc của nhiều thế hệ cầm bút: Giải thưởng Hồ Chí Minh và Giải thưởng Nhà nước.

  • THANH THẢOThơ Nguyễn Khoa Điềm say mê trong điềm tĩnh, khi nói những điều cao lớn, thơ ấy vẫn biết cúi nhìn những vật thấp nhỏ, những điều bình thường.

  • TRẦN THANH ĐẠMTrước Hồ Chí Minh, Phan Bội Châu là một nhân cách Việt Nam ưu tú và vĩ đại của thế kỷ XX. Bài này thử nêu lên một vài khía cạnh của nhân cách đó.

  • LTS: Nhân lễ một trăm ngày mất của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, Toà soạn nhận được bài viết của Cư sĩ Lê Quang Thái, giáo viên trường Trung cấp Phật học Thừa Thiên Huế - cung cấp thêm nhiều tư liệu quí về Trịnh Công Sơn và gia đình, theo “Phổ hệ” Qui y Tam Bảo tại chùa Phổ Quang - Huế, nhằm giúp độc giả hiểu thêm về quãng đời niên thiếu của nhạc sĩ tài hoa - người con thân yêu của xứ Huế đã viên thành...Sông Hương trân trọng giới thiệu và xem đây như một nén hương lòng gửi tới hương hồn Nhạc sĩ.