“Đời là những cơn mưa vô thường/ Trói chân em bên đường/ Nước dâng cao chân tường/ Đường xa chân ướt phơi nắng dầm sương”...
Bức thư pháp "Mưa Huế" của Hữu Đức
HỒ ĐĂNG THANH NGỌC
Tại Festival Huế 2012, trong không gian cổ kính đất kinh thành xưa cũ, du khách thú vị khi đứng trước bức tranh thư pháp “Mưa Huế” có trích mấy câu trong ca khúc “Những cơn mưa vô thường” của nhạc sĩ Mộc Quốc Khanh: “Đời là những cơn mưa vô thường/ Trói chân em bên đường/ Nước dâng cao chân tường/ Đường xa chân ướt phơi nắng dầm sương”.
Thật sự bức thư pháp rất đẹp, chữ “Mưa Huế” của tác giả Hữu Đức kéo dài một vệt nước thành nét nhấn chính của bức thư pháp, trải dài như nỗi niềm tâm sự Huế.
Song những dòng ca từ được trích dẫn trong bức thư pháp này chưa nói hết được những điều mà ca khúc này muốn nói.
Theo dẫn dắt của mưa, tôi gặp Mộc Quốc Khanh trong một đêm mưa Sài Gòn. Không gian thật đặc biệt cho cuộc chuyện trò. Trong mọi nền văn hóa, các hoạt động mãnh liệt nhất của đời sống xã hội được thể hiện qua những phương thức biểu lộ; trong đó âm nhạc đáp ứng được nhu cầu thăng hoa giao cảm của con người với thế giới, và vì thế, nhiều cá nhân trong cộng đồng đã dấn thân từ những ám ảnh của âm nhạc. Mộc Quốc Khanh là một trong những người như vậy.
Tên khai sinh là Trần Trọng Quốc Khanh. Tôi thích cái chữ Mộc trong bút danh Mộc Quốc Khanh khi sáng tác nhạc của anh. Mộc là mộc mạc, dung dị, song nó cũng có những chất phóng khoáng riêng với chất “thiền” của nó. Nó có chút khiêm từ của một người biết mình hay tự nhận mình là ngoại đạo, là nghiệp dư với âm nhạc chuyên nghiệp. Tôi muốn gọi anh là Mộc.
Anh sinh 1969. Thuở nhỏ, nhà Mộc sống khó khăn, song âm nhạc đã là cái gì đó luôn ám ảnh. Ngôi trường tuổi thơ anh nằm cạnh một giáo xứ. Mỗi buổi tan trường, tiếng đàn vọng ra từ nhà thờ đã khơi gợi trong anh những cảm xúc dịu vợi, thức dậy trong anh những đam mê giai điệu mơ hồ... Cả một thời thơ ấu, điều Mộc khao khát nhất là có một cây guitar để học đàn nhưng không thể có được. Anh phải đạp xe đi mượn đàn về tự học. Điều cảm động là “Bài học đầu tiên và người thầy đầu tiên dạy nhạc cho mình chính là bố” - Mộc kể. Tuy mê âm nhạc, nhưng khi những cánh phượng rơi mùa hè năm cuối bậc phổ thông, anh lại chọn ngành ngoại ngữ của Đại học Tổng hợp TP. HCM. Nợ áo cơm quả không đùa đối với một học trò có trách nhiệm gia đình trước ngưỡng cửa vào đời. Tuy nhiên, giảng đường đại học là cơ hội tuyệt vời để anh đi sâu tìm hiểu thêm về âm nhạc. Sau những giờ học ngoại ngữ, anh chôn mình trong thư viện để tự mày mò thêm về nhạc lý và một số tác phẩm âm nhạc yêu thích. Mộc và một số người bạn thành lập một ban nhạc hoạt động từ 1986 đến 1990, thỉnh thoảng tổ chức dạ hội khiêu vũ dành cho sinh viên. Rồi trong đêm dạ hội tưng bừng, một cú vỗ vai tán thưởng của người bạn và một lời khuyến khích: Thử sáng tác nhạc đi! Mộc ngỡ ngàng và viết thử. Ca khúc đầu tiên “Một lá thư nhạc” ra đời như thế, vào tháng 2/1988. “Bài hát như một bức thư tình, không bao giờ đến tay người nhận, bởi lẽ: Lá thư nhạc đã phai màu hoa/ Nát tươm bao lần viết bao lần xóa/ Đành lòng không trao thư khi bút hoa đã nhạt nhòa.” - Mộc kể...
Cầm tấm bằng đại học trong một tâm thế giằng xé giữa cơn mê sáng tác với lo kiếm việc làm, Mộc tạm thời chiều theo sở thích, buông mình cuốn theo các giai điệu. Cho đến một ngày, khi chàng trai bước ra phố không một xu dính túi, thấm thía một điều hết sức bình thường là không thể tiếp tục ngửa tay xin tiền cha mẹ, và cũng trong một cơ may vô thường đến, Mộc có cơ hội đi làm trong ngành ngân hàng. Sau hơn 10 năm làm việc, khả năng của một nhà quản lý tiềm ẩn trong Mộc xuất lộ. Với cách làm việc cẩn trọng, cần mẫn, anh được cất nhắc và hiện được phân công phụ trách Trung tâm Vàng ACB. Từ đây, việc tách bạch hai con người trong anh rõ ràng hơn: “Trong lĩnh vực ngân hàng, tôi là Trần Trọng Quốc Khanh. Còn khi sáng tác nhạc, tôi là Mộc Quốc Khanh. Tôi đã cẩn trọng để mình không có sự lẫn lộn giữa hai con người” - Mộc nói.
Ban ngày, anh là một nhà kinh doanh giữa chốn thương trường đầy cạnh tranh, nhưng trong đêm sâu tĩnh lặng, anh chìm vào không gian của những giai điệu. Thậm chí khi có tiệc tùng, anh cũng tìm cách về sớm với cây đàn. Một cách giải thoát công việc bằng âm nhạc phải không? Mộc nói đúng vậy, nhưng tôi nghĩ khác một chút. Âm nhạc nối liền với trời đất. Trong sử thi Eddas, các bậc anh hùng đều muốn khi chết sẽ được hỏa thiêu cùng với cây đàn hạc để cầu mong tiếng đàn sẽ đưa họ sang thế giới bên kia. Lorca cũng từng nói “Hãy chôn tôi với cây đàn guitar”. Trở lại với cây đàn hạc một chút. Trong dương trần, nó được xem là tượng trưng cho những liên quan căng thẳng giữa các bản năng vật chất (khung đàn và dây đàn làm bằng ruột mèo linh) với những khát vọng tinh thần được thoát thai từ âm giai của dây đàn. Những dây đàn ấy chỉ vang lên du dương nếu được đặt trong một trạng thái căng thẳng được điều chỉnh hợp lý giữa tất cả các sức mạnh tiềm ẩn của con người. Mộc là người làm được điều đó nên cây đàn hạc trong anh đã du dương vang động, ca khúc của anh viết ra không đơn thuần là để giải tỏa theo kiểu “giá vàng quay cuồng, âm nhạc trỗi dậy”, mà còn giúp nâng cao tâm hồn...
Hai mươi năm viết nhạc giúp anh có một số lượng tác phẩm đa dạng về đề tài. Có ca khúc của anh được tuyển chọn vào CD Album “Nhịp điệu năm 2000” do Bến Thành Audio-Video sản xuất và phát hành. Gần đây nhất, Mộc cho xuất bản album riêng của mình - “Những cơn mưa vô thường”, tuyển chọn 8 ca khúc: Đuốc hoa rực hồng, Một lá thư nhạc, Dưới ánh sáng mặt trời, Trở lại mùa xuân, Dạ vũ vướng chân em, Anh vẫn hát bên kia đời, Những cơn mưa vô thường, Bước sang kỷ nguyên mới. Nhạc của Mộc có những đảo phách lôi cuốn, và cả những đảo phách tinh tế như những hoa đăng thơ mộng, như một thứ ánh sáng huyền ảo của thiền giăng mắc. Ngôn từ trong các ca khúc của anh đượm màu sắc cổ điển, nhưng những giai điệu đã phác lộ những cảm xúc thẩm mỹ hoàn toàn mới.
Đuốc hoa rực hồng là ca khúc anh viết để chuẩn bị cho hôn lễ của chính mình, có những ca từ quá đẹp “Đêm xuân nhẹ nhàng dâng đuốc hoa trầm hương/ Dịu dàng hôn mắt xanh niềm thương/ Gối loan mặn nồng/ Đuốc hoa rực hồng”. Cần lưu ý một điều rằng, rất khó để có thể làm được một ca khúc đẹp và hay cho hôn lễ của mình như Mộc đã thực hiện.
Và đây chính là thơ: “Tóc mây đùa gió buông xuôi mềm mại dòng suối xanh non/ Bước xoay nhịp lơi đong đưa ngập ngừng quàng gót chân son.../ Ngón tay lặng lẽ xôn xao đợi chờ một phút ngao du/ Kết hoa nụ hôn trôi theo điệu nhạc một cõi thiên thu” (Dạ vũ vướng chân em).
Ca khúc được cho là có giai điệu đẹp nhất trong CD là “Anh vẫn hát bên kia đời”, Mộc viết nhân 100 ngày mất nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Có những câu: “Anh vẫn hát bên kia đời/ Tung cánh bay ngang trời...”. Và thông điệp của ca khúc “chết không phải là hết, mà là cuộc bắt đầu mới”: “Anh thao thức lay cung đàn/ Ngân ca khúc da vàng”... ngân vang giữa những đảo phách liền nhau giữa các phiên khúc.
Ca khúc có ca từ hay nhất, theo tôi là “Những cơn mưa vô thường”. Những giọt vô thường rơi trong ca khúc này là gì? Là “Xuân vừa hôn mắt em giờ thu vây kín chân người.../ Nụ hoa hồng tươi sớm mai về khuya khô héo thân gầy/ Bước chân em kề vai với tôi tựa như quay gót xa dần.../ Một đêm nằm ôm nhớ nhung nghìn thu lãng quên trong mưa gió gào”... Những nỗi ám ảnh về thăng trầm cuộc đời, tan hợp lòng người, sắc không của được mất... trở đi trở lại trong ca khúc. Nhưng như anh nói “Không chấp nhận dừng lại ở những dòng chữ đối nghĩa mang màu sắc của một câu chuyện triết lý âm dương đơn thuần, tôi thực tâm muốn đi xa hơn bằng cách phác họa một bức tranh thủy mặc ca ngợi tình cảm con người trong cõi vô thường đầy biến ảo dưới lăng kính tình yêu như cứu cánh cuối cùng”. Quả thật bức tranh thủy mặc ấy có những thi ảnh đẹp đẽ đến vô nhiễm: “Trong rừng khô lá thưa, ngồi trông con suối lau mình/ Trên đồng hoang khát mưa, nằm nghe mây gió tâm tình...”. Thi ảnh này lạ quá, gần như là lần đầu tiên tôi bắt gặp: những con suối lau mình giữa rừng lá mùa khô, ở đó có người ngồi ngắm...
Trong sách tuyển tập ca khúc cùng tên “Những cơn mưa vô thường”, người xem sẽ thích thú với phần mục lục với đủ bảy sắc cầu vồng đỏ-cam-vàng-lục-lam-chàm-tím có quan hệ mật thiết với nội dung tác phẩm của anh. Dụng ý của Mộc khiến tôi liên tưởng bảy màu của cầu vồng và bảy nốt của gam nhạc biểu lộ tính chất điều hòa của các tần số dao động. Cầu vồng cũng là con đường trung gian giữa hạ giới và thượng giới. Cầu vồng là hình ảnh đảo ngược của mặt trời trên tấm màn chốc lát của mưa. Số bảy trong cầu vồng cũng ám chỉ sự thay đổi sau một chu kỳ và bắt đầu một thời chu kỳ mới tích cực, cho những gì sẽ là tương lai...
Vâng, cầu vồng ấy cũng bắt đầu từ mưa vô thường của Mộc.
Huế, 11/2012
H.Đ.T.N
(SĐB 7/12-12)
Nhạc và lời: DƯƠNG BÍCH HÀ
Nhạc và lời: NGUYỄN VĂN VŨ
TÔN THẤT BÌNH
Nếu dân ca là suối nguồn cảm hứng của nhân dân lao động trong cuộc sống thì hò là phương thế thể hiện tâm tình tràn đầy xúc cảm một cách trung thực nhất.
VĂN CAO
Hồi ký
Sau triển lãm Duy nhất 1944 (Salon Unique), tôi về ở một căn gác hẹp đầu phố Nguyễn Thượng Hiền.
TÂM HẰNG NGUYỄN ĐẮC XUÂN
Tin từ Làng Mai Pháp quốc cho biết: Đêm giao thừa Thầy nói về Phạm Duy cho khoảng 70 cháu sinh viên Việt Nam về thăm Làng. Bài giảng này cũng là một loại hommage(1) cho Phạm Duy. Có thể nghe lại trên mạng chỗ Pháp Thoại online của Thầy vào ngày 30 Tết vừa rồi.
Trưa ngày 27/01/2013, cây đại thụ của làng nhạc - Nhạc sĩ Phạm Duy – đã qua đời, hưởng thọ 93 tuổi. Nhạc sĩ Phạm Duy có số lượng tác phẩm âm nhạc đồ sộ, trong đó có nhiều tác phẩm nổi tiếng. Khi còn sống, nhạc sĩ Phạm Duy cũng thường xuyên cộng tác với Tạp chí Sông Hương. Chúng tôi xin đăng lại bài viết cuối cùng của nhạc sĩ đã gởi cho tòa soạn trước khi mất và đã được đăng trên Sông Hương số Tết Quý Tỵ 2013, như một nén hương tưởng nhớ người nhạc sĩ tài hoa.
NGUYỄN TẤN TÔN NỮ Ý NHI
Trong ý niệm của nhiều người từ hạng trí thức cao cho đến bình dân, ngoại trừ dân nghiên cứu dân tộc nhạc học, hát xẩm là một thể loại âm nhạc có xuất thân thấp kém, luôn gắn liền với hình ảnh của người khiếm thị và cây đàn nhị từ góc phố, sân đình hay bãi chợ. Nhắc đến hát xẩm, đa phần người ta liên tưởng ngay đến những ca từ mộc mạc, dung dị và lắm khi dung tục.
NGUYỄN ĐẮC XUÂN
Đêm giới thiệu Trường ca Hàn Mặc Tử, tại Học viện Âm nhạc Huế thầy Trần Văn Khê và nhạc sĩ Phạm Duy đã đưa chúng ta đi từ cõi thực mộng mơ trải qua những đau đớn, vật lộn với cơn đau đến ngất lịm và cuối cùng nương tựa vào niềm tin tâm linh để hiện hữu.
TRƯƠNG ĐÌNH NGỘ
Thượng thanh khí tiết ra nguồn tinh khí
Xa xôi đời trăng mọc nước Huyền Vi
Đây Miên Trường, đây Vĩnh Cữu tề phi
Cao cao vượt hai hàng bóng vía
(Bản dịch của Trương Đình Ngộ)
NGUYỄN THỤY KHA
Có thể nhận ra sự giao hòa giữa nhiều chiều cảm xúc trong quá trình thai nghén bài hát "Thiên Thai". Song có lẽ cái lớn nhất, cái bao trùm, cái gốc để tỏa ra sự tràn trề giai điệu của bài hát này chính là sự phản ảnh có thực của một dòng sông nào đó.
ĐẶNG TIẾN “Bộ môn” Thơ đang lùi bước trong xã hội hiện đại. Đời sống đô thị nhanh bước theo nhịp tiến hóa của công nghiệp, đẩy lùi biên độ của thơ: kỹ thuật hiện đại cung cấp cho quần chúng - nhất là thanh niên - những phương tiện giải trí và truyền thông hấp dẫn và nhanh chóng hơn những bài bản vần vè trước đây - dù sao cũng gắn liền với nếp sống nông thôn.
NGUYỄN HOÀN Nhân kỷ niệm 10 năm ngày nhạc sĩ Trịnh Công Sơn về cõi thiên thu 1/4 (2001-2011), Nhà xuất bản Trẻ xuất bản cuốn sách “Thư tình gửi một người” tập hợp hơn 300 trang thư tình của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn gửi Ngô Vũ Dao Ánh, người tình có ảnh hưởng mạnh mẽ và lâu bền trong cảm hứng sáng tạo âm nhạc của nhạc sĩ.
DƯƠNG BÍCH HÀDân tộc Tà Ôi, cũng như các dân tộc cư trú dọc Trường Sơn, âm nhạc là một bộ phận thiết yếu trong đời sống văn hóa của họ, nó không chỉ mang chức năng giải trí đơn thuần mà gắn liền với tín ngưỡng, với đời sống tâm linh, là phương tiện để tiếp xúc với thần linh.
NGUYỄN THỊ HỒNG SANHNgười ta gọi Trịnh Công Sơn là “sứ giả tình yêu”, “người tình của mọi thế hệ”, nhưng có lẽ chức danh “con người thi ca” mà nhạc sĩ Văn Cao yêu mến dành tặng cho ông là phù hợp hơn cả.
TrẦn thỊ AnCho đến nay, ca trù vẫn là một thể loại văn chương âm nhạc rất xa lạ với đông đảo đại chúng. Trong ấn tượng chung, ca trù là một sinh hoạt âm nhạc trước hết gắn với lễ lạt của các ông hoang bà chúa hay các miếu đền, sau nữa là thú ăn chơi ở dinh quan, thậm chí trở nên sa đọa và trụy lạc nơi ca quán.
NGUYỄN THỤY KHATừ sau "Đề cương văn hóa" của Đảng ra đời năm 1943 sáu chữ "Dân tộc - khoa học - đại chúng" đã trở thành tâm niệm của những chiến sĩ cách mạng làm công tác văn hóa. Song ngay cả khi Cách mạng tháng Tám thành công, rồi cả dân tộc bước vào cuộc trường kỳ kháng chiến thì cho đến trước chiến dịch Điện Biên, chữ "Dân tộc' trong "Đề cương văn hóa" vẫn chỉ được các nghệ sĩ khai thác ở những vốn cổ của người Kinh, trong đó có nghệ thuật âm nhạc.
NGUYỄN THỤY KHATrong hai đêm 2 và 3.06.2004 tại Nhà Hát Lớn, Hà Nội đã diễn ra chương trình hoà nhạc của Dàn Nhạc Giao Hưởng Việt Nam dưới sự chỉ huy của Giáo sư - Nhạc trưởng người Anh Colin Metters - Cố vấn âm nhạc và nhạc trưởng hợp tác chính của Dàn Nhạc Giao Hưởng Việt Nam trong dự án 5 năm nhằm củng cố và phát triển dàn nhạc lên ngang tầm quốc tế.
VĂN THAO... Tôi tập tễnh bước một leo lên cầu thang ngôi nhà số 108 phố Yết Kiêu vào một ngày giáp tết năm 1976. Đã sang tiết xuân, trời nắng nhẹ mà vẫn lạnh. Tiếng đàn dương cầm vọng ra. Một điệu vans. Giai điệu của bản nhạc mượt mà, lấp lánh như những hạt nắng xao động trên vòm cây. Một giai điệu mà tôi chưa nghe bao giờ.
MẶC HY Hồi kýThế là tôi và Lê Lự, mấy đêm nay, lại được nằm chỏng khoèo trên mấy tấm ván nóc chuồng trâu nhà mẹ An tại Khe Giữa để đón một cái Tết thứ hai ở chiến khu Ba Lòng.