LGT: Nakahara Chuya (Trung Nguyên Trung Dã) (1907-1937) là một gương mặt chói ngời của văn học Nhật Bản cận đại dù mất ở tuổi ba mươi và chỉ kịp để lại hai thi tập “Bài ca sơn dương” (Yagi no uta) và “Bài ca ngày tháng cũ” (Arishihi no uta).
Thi sĩ Nakahara Chuya - Ảnh: internet
Vị trí của Nakahara trong văn học Nhật Bản có thể sánh ngang với Rimbaud của Pháp và Hàn Mặc Tử trong văn học Việt Nam. Chịu ảnh hưởng sâu sắc của thơ tượng trưng Pháp cùng với Cơ Đốc Giáo, Nakahara đã khai triển trong thơ mình một cảm hứng chủ đạo là “xa xăm và cao viễn” như lời của nhà phê bình Yoshida Hiroo đã nhận xét. Giải thưởng văn học Nakahara Chuya uy tín đã được thành phố Yamaguchi, quê hương ông thành lập năm 1966 để tưởng nhớ một tài năng mệnh bạc.
Bài thơ “Mùa thu mù” (Moumoku no aki) nói về một mối tình tuyệt vọng nổi tiếng sau đây được chúng tôi dịch từ tuyển thơ “Nakahara Chuya thi tập” do Yoshida Hiroo biên tập, Nhà xuất bản Tân Triều xã (Shinchosha) ấn hành năm 2008, tái bản lần thứ 15 năm 2011.
Người nữ trong bài thơ này chính là nữ diễn viên Hasegawa Yasuko (1904- 1993) vốn quen biết và sống chung với Nakahara Chuya từ khi còn ở Kyoto năm 1924. Đến năm 1925 khi Nakahara đưa nàng lên Tokyo thì quen biết và rồi sống chung với nhà phê bình Kobayashi Hideo. Khi nàng bị Kobayashi bỏ rơi, Naka- hara quay lại mong nối lại tình cũ nhưng không được chấp nhận. Mối tình tay ba nổi tiếng này cũng đã đi vào lịch sử văn học Nhật Bản. Thời kỳ này Nakahara viết nhiều thơ ca yêu đương mà “Mùa thu mù” này là một minh chứng tiêu biểu. Bài thơ cho ta thấy sự tuyệt vọng cùng cực của Nakahara, cắn chặt răng đứng trước bờ đoạn nhai tuyệt bích mà chìm vào đáy tuyệt vọng. Một bài thơ đớn đau, một bài thơ như mửa máu. Có một tứ thơ gợi nhớ Phạm Hầu “đưa tay ta vẫy ngoài vô tận, chẳng biết xa lòng có những ai”…
Hoàng Long (dịch và giới thiệu từ nguyên tác Nhật ngữ)
NAKAHARA CHUYA
Mùa thu mù
I.
Gió dựng và sóng thét gào
Đưa tay tôi vẫy trước vô tận
Lúc ấy tôi nhìn thấy một đóa hoa nhỏ màu đỏ
Nhưng rồi cũng sẽ rã nát màu phai
Gió dựng và sóng thét gào
Đưa tay tôi vẫy trước vô tận
Tôi đã bao lần than thở vô tình
Khi nghĩ mình sẽ chẳng bao giờ quay trở lại
Trong huyết quản cứng cáp tuổi thanh xuân
Đã tuôn chảy quá nhiều hoàng hôn và hoa loa kèn đỏ
Yên lặng, rực rỡ kiêu sa
Như nụ cười cuối cùng của người đàn bà gửi lại
Nghiêm trang, phong nhiêu, buồn bã
Khác thường, ấm áp, chói ngời còn lại trong lòng tôi
A, còn lại trong lòng tôi….
Gió dựng và sóng thét gào
Đưa tay tôi vẫy trước vô tận
II.
Rồi điều này sẽ ra sao? Điều kia sẽ thế nào?
Sao cũng được.
Điều này có nghĩa chi? Điều kia có nghĩa gì
Tôi lại càng mặc kệ.
Con người chỉ biết dựa vào mình thôi
Còn lại hãy phó mặc tất cả
Hãy để yên mọi chuyện như chúng là…
Nương tựa vào mình, nương tựa mình, nương tựa mình, nương tựa mình
Chỉ như thế mới khiến con người không phạm lỗi
Thản nhiên, vui vẻ yên lặng như bó rơm
Lấp đầy nồi hơi bằng sương mù buổi sáng, bước chân nhảy bẫng lên cũng được thôi
III.
Thánh mẫu Maria của tôi ơi
Tôi đã ho mửa máu
Người không nhận lấy ân tình tôi
Nên giờ đây tôi ngập ngụa trong vũng lầy tuyệt vọng
Dù tôi cũng chẳng ngoan hiền gì
Dù tôi cũng chẳng mạnh mẽ
Rất tự nhiên tôi yêu em
Em cũng yêu thương tôi vậy mà…
A, Thánh mẫu Maria của tôi ơi
Bây giờ ta chẳng thể làm gì được nữa
Ít nhất chỉ cần em biết điều này
Yêu tự nhiên, yêu người rất tự nhiên đâu phải lúc nào cũng có
Khi biết được điều này sẽ chẳng ai tha thứ cho em đâu
IV.
Ít ra khi tôi chết
Người con gái đó sẽ mở lòng với tôi chăng
Khi ấy đừng đắp mặt bằng phấn trắng
Khi ấy đừng trang điểm mặt bằng phấn trắng
Chỉ lặng lẽ mở lòng ra thôi
Hãy để chiếu xạ vào đôi mắt tôi
Đừng nghĩ gì cho tôi cả
Xin đừng nghĩ điều gì cho tôi
Chỉ xin em kìm những giọt nước mắt lã chã
Và hãy thở ấm áp mà thôi
Nhưng nếu như nước mắt có rơi
Xin hãy cúi mặt trên người tôi
Và hãy giết tôi đi cũng được
Nếu em làm như thế
trên con đường khúc khuỷu chốn hoàng tuyền
Tôi sẽ rất hân hoan
(SH299/01-14)
THÁI KIM LAN
KINHIN* im Frühling
(*Das Gehen in Achsamkeit und Bewußtheit)
EVGHÊNI EVTUSENKÔ
Tưởng niệm Anđrây Đimitiêvich Xakharôv
LTS: Ca khúc “Thời gian đang chuyển mình” được phát hành trong album cùng tên vào năm 1964. Dylan viết ca khúc này nhằm phản ánh những sự biến đổi của thời cuộc.
Thi sĩ Christopher Merrill được giới phê bình văn chương Mỹ trân trọng, như W.S. Merwin đánh giá, là “một trong những nhà thơ tài năng, táo bạo, và thành công nhất của một thế hệ thi ca hiện đại.”
Nhà thơ Müesser Yeniay, sinh năm 1984, tại Izmir - Thổ Nhĩ Kỳ. Chị tốt nghiệp Đại học Ege môn Anh ngữ và Văn học, nhận bằng Tiến sĩ Văn học Thổ Nhĩ Kỳ tại Đại học Bilkent. Chị từng đoạt một số giải thưởng Văn học tại Thổ Nhĩ Kỳ. Thơ Müesser Yeniay đã được dịch sang nhiều thứ tiếng. Müesser Yeniay hiện là biên tập viên Tạp chí Văn học Şiirden, Thổ Nhĩ Kỳ.
Jan Skacel (1922 - 1989) là một trong số những nhà thơ chủ chốt trong văn học Séc nửa sau thế kỷ 20. Ông cũng là nhân vật có vai trò quan trọng trong đời sống văn học Tiệp Khắc với tư cách là Tổng Biên tập tạp chí Host do domu trong các năm từ 1963 đến 1969.
LTS: Khi Sông Hương gửi những dòng thơ này đến với bạn đọc thì Paris đã yên bình sau cơn ác mộng khủng bố IS. Nhân loại đang đứng bên người Pháp: “Je suis Paris! Tôi là Paris! Nhân loại là Paris!” Lá cờ nước Pháp nhung phủ hàng triệu gương mặt người. Và những bài thơ dành cho Paris đã ngân lên, đơn giản, đó là biểu tượng xứ sở nghệ thuật của thế giới, là nơi Cách mạng Pháp với Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền đã mở ra một kỷ nguyên hoàn toàn mới cho nhân loại…
Buổi sáng ngày 11 tháng 9 năm 2001, bạn làm gì?
LTS: "Maiacôpxki là lá cờ đầu của thơ ca tháng Mười. Và làm thơ ca ngợi cách mạng tháng Mười Nga vĩ đại, ông luôn luôn đặt ra những câu hỏi lớn về viễn cảnh của cuộc cách mạng, về tương lai của nhân loại.
LGT: Nhà thơ Charles Simic sinh vào ngày 9/5/1938 tại Nam Tư, nơi ông có một tuổi thơ đau thương trong chiến tranh thế giới thứ II. Năm 1954, ông theo gia đình di cư sang Mỹ.
JOSEPH BRODSKY
LTS: Sinh năm 1940 tại Peterbuorg. Năm 1970, ông sang định cư ở Mỹ và dạy học tại Đại học Columbia. Ông làm thơ bằng tiếng Nga và tiếng Anh. Năm 1987 ông đoạt giải Nobel văn chương.
Những bài thơ Sông Hương chọn giới thiệu được trích trong tập “Tĩnh vật và những bài thơ khác” từ bản dịch của Hoàng Ngọc Biên.
Billy Collins (sinh ngày 22/3/1941) là thi sĩ nổi tiếng ở Mỹ. Ông đã từng hai lần được bầu là Thi bá, hay còn gọi là Nhà thơ danh dự (Poet Laureate) của Hoa Kỳ, lần đầu vào năm 2001 và lần thứ hai vào năm 2003. Trong các năm từ 2004 đến 2006 ông được bầu là Thi sĩ của bang New York.
EVGHÊNHI EVTUSENKÔ
A. VÔZNHÊXENXKI
LTS: Ngày 18-2-1987, phiên họp của Ban thư ký Hội nhà văn Liên Xô đã hủy bỏ quyết định năm 1958 khai trừ nhà thơ, nhà văn Xô-viết Bôrít Pasternak ra khỏi Hội nhà văn.
Liana Margescu sinh ngày 7/5/1969 tại Campulung Muscel, ở Romania trong một thị trấn nhỏ miền núi. Vì là đứa con duy nhất nên người cha còn hơn là hình tượng một người cha đã đóng một vai trò thiết yếu trong sự trưởng thành của con gái. Một người cha dạy những giá trị đích thực của đời sống, như là tình bằng hữu, tự do, sự thật, ngay cả khi Romania nằm dưới sự kiểm soát của chế độ chuyên chế Ceausescu. Tác giả đã nhận được giải thưởng ở Italia.
Jaroslav Seifert - Frana Sramek - Miroslav Kapek - Michal Cernik
Gwendolyn Elizabeth Brooks (1917 - 2000), là nhà thơ Hoa Kỳ gốc châu Phi. Bà từng có thơ đăng tạp chí từ năm 13 tuổi. Năm 1950 bà được giải Pulitzer về thơ, và như thế là người da đen đầu tiên ở Hoa Kỳ có vinh dự này.
A.X.PUSKIN
Khúc ca về Ô leg minh quân
JEZIBELl - RM.SHANMUGAM CHETTIAR