Ở Việt Nam, đồ đất nung (gốm, sành) được tìm thấy từ rất sớm. Các nhà khoa học đã phân chia gốm theo từng giai đoạn: thời kỳ sơ khai (đồ đá); thời kỳ văn hóa Đông Sơn (gốm Đông Sơn); thời kỳ văn hóa Sa Huỳnh (gốm Sa Huỳnh); gốm thời Lý, Trần cho đến gốm của thời kỳ đương đại.
Ở Huế, các hiện vật gốm cổ được phát hiện khá nhiều ở các lòng sông Hương, sông Bồ, sông Ô Lâu hoặc trong các ngôi mộ táng, đặc biệt là mộ chum của thời kỳ văn hóa Sa Huỳnh cách đây trên dưới 2000 năm; nhiều hũ, vò đựng tro cốt theo tập tục mai táng của người Chăm, đồ tùy táng của các dân tộc thiểu số ở phía Tây dãy Trường Sơn, cho chúng ta thấy rằng gốm đã xuất hiện khá sớm ở vùng núi, đồng bằng và ven biển thành phố Huế.
Sách Ô Châu cận lục của Dương Văn An viết vào năm 1555 đã từng ghi nhận: “Đồ đất nung ở Dõng Cảm, Dõng Quyết mối lợi không ngờ”. Dõng Cảm là tên gọi xưa của làng Mỹ Xuyên; Dõng Quyết là tên gọi xưa của làng Phước Tích. Cả hai làng gốm này đều nằm bên bờ sông Ô Lâu và có chung ranh giới là đường thiên lý, con đường nối liền Đại Việt và Chăm Pa ngày xưa. Hiện nay, hai làng Mỹ Xuyên và Phước Tích đều thuộc phường Phong Hòa, thị xã Phong Điền, thành phố Huế.
Cơn lũ năm 1990 làm xuất lộ các hiện vật gốm tại chân cầu Máng, giáp với khu vực Cồn Trèng làng Mỹ Xuyên. Lúc đó, tôi là cán bộ phụ trách công tác bảo tồn bảo tàng của phòng Văn hóa Thông tin huyện Phong Điền, nên đã tiến hành thu gom các hiện vật gốm còn nguyên vẹn (chủ yếu là gốm sành) đưa về gửi tại nhà ông Lê Văn Kha nằm cách địa điểm phát lộ gốm khoảng 20 mét. Nhân dịp TS. Bùi Vinh (Viện Khảo cổ học) vào Huế để khảo sát về thời kỳ đồ đá, tôi đã mời ông về xem điểm phát lộ gốm ở Mỹ Xuyên. Lúc đó có anh Hà Thắng, cán bộ bảo tàng tổng hợp Thừa Thiên Huế cùng đi. Thoạt nhìn những vò, hũ mà tôi đã thu gom và trực tiếp xem điểm phát lộ gốm, các anh cho rằng đây có thể là khu sản xuất gốm của người Chăm. Đặc biệt bên cạnh khu lò này còn có các hiện vật văn hóa Chăm Pa và miếu thờ thần Cao Các.
Thông tin việc phát hiện khu lò gốm ở Mỹ Xuyên được TS. Bùi Vinh báo với lãnh đạo Viện Khảo cổ học. Viện đã liên tục cử các chuyên gia khảo cổ như: Trịnh Cao Tưởng, Nguyễn Mạnh Cường… vào Mỹ Xuyên. Tôi cũng thường xuyên theo các anh ấy về Mỹ Xuyên, Phước Tích để trực tiếp khảo sát và thăm dò ở khu vực Cồn Trèng Mỹ Xuyên, Cồn Trèng Phước Tích và những địa điểm có dấu vết lò nung (gốm, gạch) ở huyện Phong Điền. Sau nhiều lần thăm dò, khảo sát, các chuyên gia Viện Khảo cổ học, chuyên gia bảo tàng và khoa sử của các trường đại học ở Huế đều chưa thống nhất về việc xác định khu lò gốm ở Mỹ Xuyên là của người Chăm hay người Việt. Khi đến Viện Khảo cổ học, GS. Hà Văn Tấn đã từng trao đổi vấn đề này với tôi và cho rằng chỉ có tiến hành khai quật khảo cổ học mới xác định chính xác chủ nhân của khu sản xuất gốm ở Mỹ Xuyên.
Nhằm làm sáng tỏ vấn đề này, ngày 23 tháng 6 năm 1993, Sở Văn hóa - Thông tin Thừa Thiên Huế đã gửi công văn xin phép Bộ Văn hóa - Thông tin cho phép Sở phối hợp với Viện Khảo cổ học khai quật khu lò sản xuất gốm ở Mỹ Xuyên và Phước Tích. Ngày 6/7/1993, Bộ Văn hóa - Thông tin đã ra quyết định số 874 QĐ/BT do Thứ trưởng Lưu Trần Tiêu ký, cho phép khai quật cả hai di chỉ gốm Mỹ Xuyên và Phước Tích. Khi đoàn khảo cổ về Phong Điền, cũng là lúc các phương tiện thông tin đại chúng ở tỉnh Thừa Thiên Huế (lúc đó) đăng tải và phát bài: “Những lò gốm của người Chàm ở Mỹ Xuyên” của hai tác giả: Nguyễn Hữu Thông và Nguyễn Quang Trung Tiến (bài đăng trên báo Thừa Thiên Huế ngày 15/7/1993 và phát trên đài phát thanh tỉnh). Bởi lẽ đó nên đoàn đã quyết định tập trung khai quật di chỉ gốm Mỹ Xuyên trước. Kết quả cuộc khai quật đã làm sáng tỏ về niên đại đồng thời xác định chủ nhân của các lò gốm này là của người Việt. Cuộc khai quật đã thu được 706 hiện vật có giá trị (kể cả 41 hiện vật sưu tầm từ trước đó). Trong báo cáo “Kết quả điều tra và khai quật khu sản xuất đồ sành ở Mỹ Xuyên” (bản chép tay), nhà khảo cổ học Phạm Như Hồ (Trưởng đoàn khai quật) đã viết: “Có thể nói: Khảo cổ học, cho đến nay (1993) chưa hề tìm thấy một khu lò sành nào mà hiện vật lại phong phú như lò ở Mỹ Xuyên. Kỹ nghệ làm đồ sành ở đây (tuy chưa hề có tráng men) thực sự đã đạt tới trình độ tuyệt đỉnh. Việc sử dụng thành thạo bàn xoay (cả bàn xoay nhanh và bàn xoay chậm), kết hợp với việc tỉa tót, gắn chắp, đắp nặn bằng tay của người thợ gốm Mỹ Xuyên xưa đã tạo ra những hiện vật tuyệt đẹp: Những nắp vung, nắp bình vôi trông như gỗ tiện; những kiểu dáng tai, quai, chân đế quá cầu kỳ như những tác phẩm nghệ thuật. Cá biệt có những hiện vật như chiếc chân đèn, chiếc nắp bình đốt trầm quá cầu kỳ, tinh xảo đến ngay cả đồ sứ cao cấp còn ít thấy... Kỹ nghệ làm đồ sành ở Mỹ Xuyên có thể khẳng định là đã đạt đến một trình độ cao. Người thợ ở đây chắc hẳn đã phải có tay nghề lâu năm, vững vàng và cũng phải được thừa hưởng nhiều kinh nghiệm quí báu của những thế hệ trước truyền lại...”1.
Việc tìm thấy khu lò gốm cổ ở Mỹ Xuyên và kết quả của đợt khai quật khảo cổ học năm 1993 đã minh chứng cho một thời kỳ hưng thịnh của nghề gốm ở vùng này. Đúng như sách Ô Châu cận lục từng ghi nhận: “Đồ đất nung ở Dõng Cảm, Dõng Quyết mối lợi không ngờ”. Qua nghiên cứu tư liệu lịch sử, đối chiếu hình loại gốm từ các hố khai quật khảo cổ học ở Cồn Trèng, Mỹ Xuyên, các nhà khảo cổ học của Nhật Bản cũng cho biết gốm của lò Mỹ Xuyên đã từng xuất hiện trong nghệ thuật Trà đạo của Nhật Bản từ thế kỷ trước (ở các di chỉ được xác định niên đại từ 1596 - 1615), song họ cũng lưu ý rằng đây không phải là niên đại sản xuất của các hiện vật gốm được phát hiện ở các hố khai quật. Trong tham luận trình bày tại hội thảo Trà đạo ở Tokyo, Nhật Bản tháng 11 năm 2002, PGS.TS. Trịnh Cao Tưởng đã dùng thuật ngữ Stone Wares để gọi dòng gốm sành ở nơi đây.
Việc tìm thấy khu lò gốm cổ ở Mỹ Xuyên trong đợt khai quật khảo cổ học năm 1993 đã minh chứng cho một thời kỳ hưng thịnh của nghề gốm ở vùng này. Đặc biệt, kỹ thuật chế tác gốm ở đây đã được các nhà chuyên môn đánh giá rất cao. Bài viết: “Một niên đại và vị trí của gốm sứ Việt Nam được sử dụng trong trà đạo Nhật Bản căn cứ vào nghiên cứu gốm sứ Việt Nam những năm gần đây qua phương pháp khảo cổ học” của Nishino Noriko, trường Đại học Osaka Nhật Bản, đã nêu rõ: “Gốm sứ Việt Nam được khai quật trong các di chỉ Nhật Bản cho phép chúng ta kết luận rằng các gốm sứ Việt Nam có niên đại từ nửa thế kỷ XIV đến cuối thế kỷ XVII đã được xuất sang Nhật Bản. Nhưng các gốm Việt Nam được khai quật tại Nhật Bản có được sử dụng trong trà đạo hay không là vấn đề phải nghiên cứu kỹ hơn nữa. Chúng ta có thể biết đồ gốm đó được sử dụng trong trà đạo nếu nó được khai quật trong một cụm gốm gồm nhiều dụng cụ trà đạo khác.
Về vấn đề này, ông Morimura (2002) cho rằng, trong di chỉ SKT47 (Sakai), bát men trắng Việt Nam đã được khai quật trong di chỉ SB09 bao gồm những dụng cụ trà đạo khác như lọ trà Phúc Kiến, hộp hương, Kensui, bát trà Triều Tiên. Còn trong SKT230 (Sakai), nồi và lọ hoa được sản xuất tại lò Mỹ Xuyên được khai quật với bát Karatsu, Bát men trắng Triều Tiên v.v. SKT202 cũng khai quật được 2 lọ của lò Mỹ Xuyên. Trường hợp gốm sứ Việt Nam được khai quật những sản phẩm với dụng cụ trà đạo như trên, bát men trắng, nồi sành, lọ sành đó có thể được chứng minh đó là dụng cụ trà đạo. Ba di chỉ trên đã bị cháy trong thời gian từ 1596 đến 1615. Nghĩa là các hiện vật được khai quật lớp đó bị bỏ trong những năm đó. Nhưng phải chú ý rằng, niên đại đó chưa phải là năm sản xuất”2.
Tháng 10/2002, năm nhà khoa học Nhật Bản, dẫn đầu là ngài Seizo Hayashiya, Trưởng ban cố vấn của Hội Trà đạo Tyadou Shiyou Kan (nguyên Phó Giám đốc Bảo tàng Tokyo National) đã đi cùng PGS.TS. Trịnh Cao Tưởng, Viện Khảo cổ học đến Huế để xem các hiện vật gốm trưng bày ở Bảo tàng (chủ yếu là gốm khai quật được ở Mỹ Xuyên), đồng thời tham quan các di chỉ khảo cổ học Mỹ Xuyên và cảng Thanh Hà. Mục đích của chuyến khảo sát này là nghiên cứu các hiện vật gốm liên quan đến Trà đạo Nhật Bản ở Mỹ Xuyên và con đường giao thương của gốm ở đây với các nước thông qua cảng Thanh Hà. Lúc đó, PGS.TS. Trịnh Cao Tưởng đã cho biết, ông đã có kế hoạch cùng với các nhà khoa học Nhật Bản xin phép Bộ Văn hóa - Thông tin cho khai quật tiếp tục các di chỉ gốm ở Mỹ Xuyên và Phước Tích. Nhưng công việc chưa tiến hành thì PGS.TS. Trịnh Cao Tưởng đột ngột qua đời.
Trong bài viết “Hướng tới việc xác lập những tiêu chuẩn định niên đại cho gốm sành Việt Nam” trình bày tại hội thảo Trà đạo tại Tokyo, Nhật Bản tháng 11 năm 2002, tác giả Trịnh Cao Tưởng đã có nhận định như sau: “Một số loại vò hình trụ, cổ nhô cao khoảng 2cm - 3cm, loại hình tiêu biểu của lò Mỹ Xuyên, đã xuất hiện trong các lò nung gốm sành từ thế kỷ XV nhưng đáy rộng hơn và ở mép vành miệng ít thấy có đường khắc lõm như hũ Mỹ Xuyên”. Trong bài tham luận ở hội thảo này, ông đã dành gần một trang để viết về việc phát hiện lon sành ở di chỉ lò nung Mỹ Xuyên đã góp phần giải mã được công dụng của lon sành (được phát hiện khá nhiều trong các di chỉ gốm) mà từ lâu các nhà nghiên cứu chưa biết được công năng chính xác của hiện vật này nên đã đưa ra nhiều giả thuyết khác nhau, như đó là bát ăn cơm; bát kê nong tằm hay là vật lót dưới đáy mộ... Ông viết: “Điều dự đoán của chúng tôi đã được xác tín khi chúng tôi tìm thấy một hiện vật trong số những đồ phế thải khu lò gốm Mỹ Xuyên, Huế còn nguyên lon sành dính trên miệng vò. Người ta không thể xếp chồng một hiện vật khác lên trên cái miệng rất mỏng manh của chiếc vò phía dưới. Do vậy, khi xếp sản phẩm vào nung người ta phải úp lên miệng chiếc bình phía dưới một chiếc lon sành, rồi mới đặt chiếc bình thứ hai lên trên đó”.
Như vậy, ta thấy rằng gốm Mỹ Xuyên và cả Phước Tích ngày xưa đã có thời kỳ cực thịnh. Gốm sản xuất ở đây đã trở thành hàng hóa tiêu thụ không những ở trong nước mà còn được bán ra nước ngoài thông qua thương cảng Thanh Hà và Hội An. Đây là điều chúng ta chưa biết đến nếu không có những thông tin từ việc khai quật khảo cổ học của Viện Khảo cổ học Việt Nam và các công trình nghiên cứu về gốm của các nhà nghiên cứu trong nước và quốc tế.
Như vậy từ thế kỷ XV, XVI, ở vùng đất này đã tồn tại hai làng làm nghề gốm là Dõng Cảm và Dõng Quyết, tức là làng Phước Tích và Mỹ Xuyên. Nhưng về sau này chỉ còn làng Phước Tích làm nghề gốm. Còn làng Mỹ Xuyên lại được biết đến bởi nghề điêu khắc gỗ truyền thống nổi tiếng. Qua nghiên cứu tư liệu lịch sử, đối chiếu hình loại gốm từ các hố khai quật khảo cổ học ở Cồn Trèng Mỹ Xuyên, các hố thám sát ở Cồn Trèng Phước Tích cùng hiện vật gốm nhân dân đang sử dụng hoặc cất giữ, chúng tôi cho rằng gốm của hai làng Phước Tích, Mỹ Xuyên có cùng nguồn gốc xuất xứ.
N.T
(TCSH435/05-2025)
------------------------
1. Văn bản hiện đang lưu trữ tại Bảo tàng Lịch sử Thừa Thiên Huế.
2. Bài trích trong tập Oriental Culture - Tradition and Integration (tr 427 - 432) do PGS.TS. Trịnh Cao Tưởng cung cấp.
LÃO THƯ SINHLTS: Trong lúc đề tài cổ vật tìm thấy dưới sông Hương đang râm ran, Tòa soạn nhận được câu chuyện tự thuật hết sức thú vị dưới đây. Nhà “Gốm bể học” đã trên 30 năm “về chơi gốm bể”, vậy mà từ mảnh vườn xưa đầy lu hủ ấy lại có biết bao nhiêu nhân tình thế sự vây quanh nhà nghiên cứu Huế. Đọc câu chuyện này, có những đoạn anh em trong tòa soạn không khỏi tiếc thầm: Giá như mình có thể giúp cho nhà nghiên cứu Hồ Tấn Phan một điều gì đó, bởi vì những mảnh gốm ông kiếm về ấy, có phải ông dành cho riêng ông đâu, mà cho cả vùng văn hóa xứ Huế mà ông đã yêu nó biết bao nhiêu!
(tiếp theo phần 1)
LTS: Cổ vật tìm thấy dưới sông Hương gần đây là một đề tài thú vị thu hút các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu, đông đảo bạn đọc trong và ngoài nước quan tâm. Trong vài năm gần đây, báo chí cả nước đã đề cập đến khá nhiều các loại cổ vật dưới sông Hương được tìm thấy, song chưa ai đưa ra những giới thiệu tổng quan một cách khoa học về chúng.
Thuật ngữ “cổ vật” chúng tôi nói đây là để chỉ những đồ vật do khối óc và bàn tay con người làm ra và đã được sử dụng để thoả mãn những nhu cầu tinh thần và vật chất trong cuộc sống cách nay khá lâu hay rất lâu. Những đồ vật này có cái còn nguyên vẹn, có cái đã bị vỡ do sự va chạm theo dòng chảy của thời gian hay do sự vụng về, vô tâm của những người trục vớt.
Toàn bộ hai tầng của đàn Xã tắc - bộ phận quan trọng bậc nhất trong quần thể di tích - di sản thế giới tại Huế, đã được xác định rõ, đặc biệt trong đó là sự xuất lộ rất nhiều tầng đất khác nhau trên khu đàn chính... Đó là kết quả bước đầu của đợt khai quật khảo cổ học di tích đàn Xã tắc triều Nguyễn - TP Huế, do Bảo tàng Lịch sử VN tiến hành từ đầu tháng 2/2008 đến nay.