Theo các nhà nghiên cứu, hội chứng Tourette gây ra ở Mozart những hành vi khó hiểu nhưng đồng thời đó cũng có thể là lời giải thích hợp lý cho các ý tưởng âm nhạc vô tận của nhạc sĩ thiên tài.
Năm 1938, lần đầu tiên những lá thư của Mozart được chuyển qua tiếng Anh và xuất bản đầy đủ. Điều đặc biệt là trong nhiều lá thư, những từ tục tĩu thường xuyên xuất hiện. Từ việc nghiên cứu những lá thư này, giả thuyết Mozart mắc hội chứng Tourette lần đầu được hai nhà nghiên cứu Đan Mạch đưa ra tại hội nghị tâm thần học ở Vienna năm 1983. Một năm sau, bộ phim Amadeus của đạo diễn Miloš Forman công chiếu, trong đó hội chứng Tourette ở Mozart được diễn viên chính thể hiện khá chuẩn xác: không ngừng cử động chân tay và nói luôn miệng.
Hội chứng Tourette được nhận ra do nhiều tật máy giật vận động và máy giật phát âm, bao gồm chứng nói tục (coprolalia), nhại lời người khác (echolalia), hay lặp lại lời của mình (palilalia) - những tật này lúc tăng lúc giảm và có thể được kiểm soát tạm thời.
Phân tích kỹ lưỡng 371 bức thư của Mozart, giới nghiên cứu nhận thấy những từ tục tĩu, trong đó phổ biến nhất là “cứt”, được nhắc đến trong hơn 12% số thư. Một báo cáo năm 1978 cho thấy phổ từ tương tự cũng thường xuyên được sử dụng bởi những người mắc hội chứng Tourette ở New York.
Điều khá trùng hợp là những bức thư chứa những từ tục tĩu thường xuất hiện đúng vào thời điểm gắn với sự kiện lớn trong đời nhạc sĩ, như chuyến lưu diễn Italia lần đầu khi 14 tuổi (1770) đem lại tiếng tăm lớn; hay giai đoạn khủng hoảng trầm trọng và rất áp lực1 trong những năm 1777-1781. Năm 1873, Mozart có con trai đầu lòng, mâu thuẫn giữa cha nhạc sĩ - ông Leopold - và chủ nhà người Do Thái vì tranh nhau làm cha đỡ đầu cho đứa bé, cùng với việc đứa bé đột ngột qua đời cũng khiến nhạc sĩ căng thẳng và viết những lá thư có những từ tục tĩu. Điều này lại xảy ra năm 1789, lúc Mozart “cày” tour xuyên các thành phố ở Đức để cải thiện tình hình tài chính tệ hại. Cuối cùng là khoảng mùa thu năm 1791, thời điểm Mozart sáng tác hai vở opera cuối cùng và qua đời trước khi hoàn thành Khúc cầu hồn (Requiem). Như vậy có thể thấy các cảm xúc mạnh mẽ có liên quan với chứng nói tục trong các bức thư của Mozart.
Những nhà viết tiểu sử như Schlichtegroll (1793), Niemetscheck (1798) hay Nissen (1828) đã phỏng vấn người thân, bạn bè của nhạc sĩ, như chị gái Nannerl, góa phụ Constanze, chị dâu Sophie Haibel và bạn lâu năm Andreas Scachtner – những người này cùng một số nhân chứng đáng tin cậy khác đều mô tả chứng máy giật vận động và máy giật phát âm ở Mozart.
Máy giật vận động
Một nguồn khảo cứu về chứng máy giật vận động ở Mozart nằm trong Nekrolog auf das Jahr 1791 [Tiểu sử những người qua đời năm 1971] gồm 12 tập do Schlictegroll [người đầu tiên viết tiểu sử Mozart] soạn với phần dành cho Mozart dài 6.000 từ.
“Ông gầy nhẳng và nhợt nhạt; khuôn mặt ông hết sức đặc biệt, nhưng những biểu cảm của ông thì rất khó nhớ vì nó thay đổi quá nhanh. Nét mặt ông thay đổi liên tục, không lưu lại dấu vết gì của niềm vui hay nỗi buồn mà ông bất chợt cảm thấy ngay trong thời khắc đó. Ông có hành vi và biểu hiện như một kẻ ngốc: cơ thể chuyển động không ngừng nghỉ, tay vung vẩy còn chân gõ liên tục xuống sàn”.
Chị dâu Sophie Haibel, người từng chăm sóc vợ Mozart lúc sinh con, cũng mô tả rất kỹ về Mozart trong cuốn tiểu sử của Nissen (1828) như sau: “Kể cả khi rửa tay vào sáng sớm thì cậu ta vẫn đi tới đi lui trong phòng… không lúc nào đứng yên một chỗ, gót chân nọ gõ vào gót chân kia… và luôn đăm chiêu. Ở bàn ăn thì cậu ấy xoắn vặn một đầu khăn ăn rồi xoa vào môi trên một cách vô thức mà không biết mình đang làm gì, và hay phồng miệng một cách kỳ lạ… Rồi chân tay cậu ấy luôn cử động, chạm vào cái gì đó như mũ, túi quần áo, bàn ghế như thể đó là phím đàn clavier vậy”.
Giọng nam cao Ireland Michael Kelly (1762 –1826), người tham gia phần diễn mở màn vở opera Đám cưới Figaro, nhớ lại: “Tôi không thể nào quên được nét mặt luôn có chút gì đó sôi nổi của ông ấy...” Em dâu Mozart, Josepha Hofer, cũng để ý thấy tay chân và môi nhạc sĩ cử động liên hồi khi xem vở opera này.
Trong khi đó, theo lời người vợ Constanze, Mozart có thói quen dậm chân liên tục nếu như nhận thấy dàn nhạc mắc lỗi. Biểu hiện rõ nhất của hội chứng Tourette đó là nhạc sĩ không thể ngồi yên mà luôn đi lại trong phòng trong tình trạng “hồn trên cung trăng”. Ông cũng thường xuyên viết nhạc trong khi đang chơi billiards, nói chuyện với bạn bè hay làm những việc khác, giống như là phân thân làm đôi. Vận động chân tay ở ông dường như hoàn toàn vô thức.
Máy giật phát âm
Chứng máy giật phát âm của Mozart được nhiều tài liệu khẳng định, từ nhân chứng sống cho tới những bức thư kỳ lạ. Bằng chứng được dẫn ra nhiều nhất là mô tả của nữ tiểu thuyết gia người Áo, học trò của Mozart - Karoline Pichler: “Một hôm khi tôi đang chơi giai điệu ‘Non piu andrai’ [Xin em đừng đi] từ vở Figaro bên chiếc đại dương cầm thì Mozart đến chơi; ông bất ngờ xuất hiện sau lưng tôi, ngồi xuống và nói tôi tiếp tục chơi trong khi miệng âm ư giai điệu đẹp tuyệt vời mà ai cũng từng nghe... Nhưng rồi bỗng nhiên ông thấy chán, nhảy bổ khỏi ghế trong tâm trạng khùng khùng thường thấy ở ông, rồi nhảy qua bàn qua ghế, miệng kêu meo meo như mèo và lộn vòng như một thằng bé ngỗ nghịch vậy”.
Dựa trên chi tiết vở Figaro có thể đoán rằng chuyện này xảy ra hồi những năm 1786-1789. Trong giai đoạn đó, Mozart thậm chí còn viết “Rondo meo” (K298) với chú thích dài dòng “Allegretto grazioso [khá nhanh và vui vẻ] nhưng không presto [quá nhanh], cũng không quá adagio [chậm], kiểu kiểu thế... thật nhiều sự quyến rũ và biểu cảm”. Năm 1790, Mozart hợp tác với nhạc sĩ bạn thân Benedikt Schack viết nhạc cho gánh hát của Schikaneder. Felix Joseph Lipowsky, chủ một nhà xuất bản người Đức chuyên ấn hành các cuốn tiểu sử về các nghệ sĩ và nhà soạn nhạc, kể lại hồi năm 1811 rằng khi Mozart tản bộ cùng Schack, ông thỉnh thoảng ngồi nghỉ và viết nhạc. Các tiểu phẩm như K625 “Nun, liebes Weibchen, zeihst mit mir” [Em yêu, hãy ở bên anh], một aria hài hước dành cho giọng nữ cao và nam trầm có những đoạn giọng nam hát đối bằng một loạt từ “meo, meo, meo, meo” liên tiếp.
Tật máy giật phát âm của Mozart còn thể hiện ở thói lảm nhảm những từ ngữ vô nghĩa hay đặt ra các biệt danh kỳ lạ cho người thân và bạn bè. Hồi nhỏ, Mozart đã tự hát thành giai điệu những từ chẳng có nghĩa gì như “oragnia figarafa” trước khi đi ngủ. Thư gửi cho anh chị em, bạn bè được đề những biệt danh quái gở kiểu như Nữ công tước Vỗ mông, Bá tước Sến chảy nước, Hoàng tử bụng bia đuôi lợn. Nhóm những người yêu nhạc nhà nam tước Jacquin2 thì được Mozart đặt cho những cái tên có phát âm kỳ quặc như: Hinkity Honky, Punkititi, Schalaba Pumfa, Royka-Pumfa, Natschibinitschibi, Sagadarata, Schlamanuzkey, Runzi-funzi, Ramlois-Schurimiri, Gaulimauli, Blatterrizi, Quý cô Diniminimi. Riêng thư gửi vợ từ 1789 với 1791 có các từ Schluck và Druck, Spitzegnos, Schlumba và Saperlotte, Stachelshwein, “nu, nu, nu, nu”, Stanzi-marini, Plumpa-Strumpi, Lacci Bacci và Snai.
Joseph Lange, họa sĩ nổi tiếng từng vẽ chân dung Mozart hồi năm 1782 và 1789, nhận xét, những lúc bận bịu với một công việc quan trọng nào đó, Mozart nói chuyện lúng túng và rời rạc, đôi khi buột ra những lời mà người ta không ngờ được ở ông. “Hoặc ông cố tình che giấu sự căng thẳng nội tâm đằng sau vẻ ngớ ngẩn bề ngoài, hoặc ông vì mải chìm đắm trong những ý tưởng thần diệu mà buột ra những lời khiếm nhã,” họa sĩ nhận xét.
Tăng động
Các hội chứng kèm theo và thường xảy ra đối với người mắc hội chứng Torrette là rối loạn tăng động giảm chú ý và rối loạn ám ảnh cưỡng chế.
Cũng có những bằng chứng rõ ràng về chứng tăng động ở Mozart. Nhà thơ, tiểu thuyết gia đương thời người Đức Ludwig Tieck từng mô tả Mozart trong buổi diễn tập một vở opera: “Ông ấy nhỏ con, nhanh nhẹn, không ngưng cử động chân tay và đi lại liên tục từ khu này sang khu khác, giống như một con rối nhỏ lọt thỏm trong chiếc áo khoác xám lớn”. Trong buổi diễn tập, nhạc sĩ thường rời bục chỉ huy đến nói chuyện với những nhạc công khác nhau rồi lại leo lên bục, theo lời Ludwig Tieck.
Từ những bằng chứng thu thập từ thư từ và các cuốn tiểu sử về Mozart, các nhà khoa học cho rằng, có thể kết luận nhạc sĩ thiên tài là nạn nhân của hội chứng Tourette. Tuy nhiên, khoa học đã chứng minh hội chứng này không ảnh hưởng xấu đến trí thông minh của người mắc. Một bài báo phân tích tâm lý của Margaret Mahler và Leo Rangell, hai nhà nghiên cứu nổi tiếng về hội chứng Tourette, xuất bản vào năm 1943, lần đầu chỉ ra rằng những người mắc hội chứng này bị rối loạn chức năng biểu hiện cảm xúc bằng hành vi với đặc điểm không thể kiềm chế những cảm xúc thường trực ở trong tình trạng phấn khích quá mức. Rất có thể chính trạng thái phấn khích thường trực đó đã góp phần kích thích khả năng sáng tạo vô tận của nhạc sĩ thiên tài.
Nguồn: Trang Nguyễn - Tia Sáng
Hội chứng Tourette (còn được gọi Hội chứng Gilles de la Tourette) thường khởi phát từ tuổi lên 5 đến 15. Chưa ai biết nguyên nhân chính xác gây nên hội chứng này nhưng yếu tố di truyền và môi trường được coi là những nguyên nhân tiềm tàng. Nhà thần kinh học người Pháp Jean-Martin Charcot (1825–1893) đặt tên cho hội chứng này theo tên một bác sĩ nội trú của ông, Georges Albert Édouard Brutus Gilles de la Tourette (1859–1904), người đã xuất bản bài tường thuật về chín người bị hội chứng nói trên vào năm 1885. |
1 Giai đoạn 1777-1781, Mozart làm việc cho Tổng giám mục Salzburg song bị trả lương thấp, chưa kể ông mê sáng tác opera – thể loại mà Tổng giám mục không có thiện cảm. Cũng thời gian này, ông nhảy việc liên tục, mâu thuẫn với bạn thuê chung nhà, phải bán đi nhiều món đồ có giá trị; tới năm 1781, khi Idomeneo, vở opera đầu tiên thành công của ông ra mắt thì tình hình mới bắt đầu được cải thiện.
2 Mozart là thầy dạy nhạc cho con trai và con gái nam tước Jacquin, nhiều tác phẩm của ông được đề tặng cho gia đình nam tước.
NGUYỄN VIỆT ĐỨC1.Về bản sắc văn hoá dân tộc.Mỗi dân tộc đều có một tiếng nói riêng, một cốt cách riêng được phản ánh thông qua những giá trị tinh thần và vật chất cụ thể, đó là bản sắc văn hoá truyền thống của dân tộc đó.
VĨNH PHÚCNghiên cứu, phê bình, giới thiệu Dân ca Nam Bộ trong giai đoạn này chúng tôi chỉ sưu tập được 15 bài, tuyển chọn và sử dụng 9 bài. Hầu như đều nổi trội lên 2 thể loại chủ yếu là Hò và Lý, kể cả những bài viết mang tính tổng quan về vùng dân ca này.
MẶC HY Hồi ký "Lúa vàng! Lúa vàng trên cánh đồng làng, tang tình tang, tang tình tang... Đêm nay, gặt mà lúa về... ta đập mà ta xay, ta giã mà ta giần..."
MAI VYSự sáng tạo nghệ thuật của giới nghệ sĩ biểu diễn xuất phát từ cảm xúc trước tác phẩm, trước cuộc sống. Đó là đặc thù trong quan hệ thẩm mỹ của con người với hiện thực. Mối quan hệ đó bao giờ cũng là mối quan hệ có tính chất cảm tính. Người nghệ sĩ chân chính nào cũng có khả năng cảm xúc rất nhạy bén trước đối tượng được thể hiện. Họ có khả năng lồng trí tưởng tượng vào trong quá trình sáng tạo cốt để thâm nhập sâu hơn vào bản chất của các sự vật.
NGUYỄN THỤY KHACó thể nói, khi có loài người là có âm nhạc. Thực ra những âm thanh trong thiên nhiên, vũ trụ có trước loài người. Nhưng loài người không chỉ nghe được nó như loài thú chỉ đạt tới cảm xúc, mà còn nhận thức nó, bắt chước nó để tạo ra những âm thanh của mình. Một cành cây hay một khúc xương, người làm ra cây sáo. Sợi dây cung trở thành dây đàn. Một tấm da thú căng ra là thành cái trống.
MAI VYÂm nhạc là một bộ môn nghệ thuật có nhiều loại hình phong phú và đa dạng, từ làn điệu dân ca mộc mạc, từ nét nhạc tấu đơn giản của cây đàn nghiệp dư, đến những bản a-ri-a hết sức phức tạp trong ô-pê-ra hay các hình thức âm nhạc giao hưởng khác nhau như liên khúc giao hưởng, Trường ca giao hưởng.
NGUYỄN THỤY KHAVới độ dày gần nửa mét, gồm 7 quyển sách chia làm 5 tập (có tập 2 và tập 5 gồm 2 quyển) và bìa sách trình bày đẹp, trang trọng, bộ sách “Hợp tuyển tài liệu Nghiên cứu - Lý luận - Phê bình âm nhạc Việt Nam thế kỷ XX” là bộ sách âm nhạc đồ sộ và công phu nhất của ngành âm nhạc từ trước đến nay do Viện Âm nhạc Việt chủ biên và ấn hành vừa giới thiệu trước công luận gần đây.
NGUYỄN TRƯƠNG ĐÀNĐã gần một năm, Anh từ biệt trần gian về cõi vĩnh hằng, tâm tưởng tôi vẫn vấn vương với Anh, vẫn luôn mường tượng thấy Anh với nụ cười tươi tắn, rất hồn nhiên, lại nhiều lúc thấy Anh đang mơ màng chìm trong một thế giới riêng tư xa thẳm nào đó.
NHẤT LÂMVâng.Ca khúc thời ấy thật hào hùng, sôi sục và đầy lãng mạn.Đó là đêm trước của tháng Tám năm 1945, những năm tháng của phong trào Việt Minh chuẩn bị cho ngày toàn dân vùng lên đánh đổ mọi thế lực thù địch để giải phóng dân tộc, đất nước, mở ra kỷ nguyên độc lập, tự do. Và cái mốc đó, theo tôi là từ ngày cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn (tỉnh Lạng Sơn) năm 1941.
VIỆT ĐỨCVề với Trường Sơn, về với kỷ niệm của một thời khói lửa đạn bom là tiếng lòng, là tâm nguyện của nhiều hội viên Hội nhạc sỹ Việt Nam tỉnh Thừa Thiên Huế kể từ sau ngày giải phóng hoàn toàn Miền Nam 30/4/1975. Và sau gần 30 năm, mùa xuân 2004, tâm nguyện ấy đã trở thành hiện thực khi kỷ niệm của một thời chiến tranh cứ ào ạt ùa về theo bước chân các nhạc sỹ trở lại tuyến biên giới miền Tây A Lưới.
PHAN THUẬN THẢOGagaku - Nhã nhạc - là loại hình âm nhạc cung đình của Nhật Bản, đối lập với Zokugaku, tức âm nhạc dân gian. Thuật ngữ Gagaku được tiếp thu từ Trung Hoa cùng với sự tiếp nhận một bộ phận các nhạc khí và bài bản từ hệ thống âm nhạc cung đình phong phú và đặc sắc của đất nước Trung Hoa rộng lớn và giàu truyền thống văn hoá.
LÊ PHÙNGThế là không còn phút giây mong ngóng, đợi trông - “Ngày em đến đôi mắt long lanh, thơ ngây mơ màng, ngày em đến đôi má hây hây hương thơm nồng nàn...” Bởi chàng nhạc sĩ lãng tử ấy đã ra đi, về với cõi vĩnh hằng. Còn đâu nữa bóng hình của gã si tình say mê, đợi chờ ngày em đến.
Nhà thơ - Nhạc sĩ Nguyễn Trọng Tạo là một tên tuổi nổi tiếng như một nghệ sĩ đa tài Cầm Kỳ Thi Họa trong làng văn học nghệ thuật Việt . Ông là Ủy viên Hội đồng Thơ Hội Nhà Văn Việt Nam, người sáng lập và phụ trách tờ báo Thơ, nay là tạp chí Thơ; ông cũng là một trong những ngưới sáng lập ra Ngày Thơ VN.
DƯƠNG BÍCH HÀĐến hẹn lại lên - Festival Huế 2006 đã cận kề. Năm nay, ngoài các loại hình dân ca, dân nhạc, dân vũ; các lễ hội, kịch, tuồng... đặc sắc của Huế, ban tổ chức (BTC) Festival nhấn mạnh một số trọng tâm như: Giao lưu nhã nhạc Việt Nam - Nhật Bản - Hàn Quốc; không gian văn hoá cồng chiêng (nhân cồng chiêng được công nhận là di sản văn hoá); có dàn giao hưởng dân tộc; chương trình thử nghiệm đưa âm nhạc điện tử, nhạc Jar của Pháp kết hợp với âm nhạc truyền thống Huế, âm nhạc Phật giáo; và chương trình âm sắc Việt...
NGUYỄN XUÂN HOÀNGCó ngày bỗng dưng thấy lòng thật quạnh hiu. Một nỗi cô đơn nào đó khôn tả xâm chiếm tâm hồn. Tôi đi hoài, lang thang vô định trên những con đường phố Huế xanh xao ánh đèn vàng, bất chợt lòng vang lên giai điệu quen thuộc một ca khúc nào đó của Trịnh Công Sơn. Tự hát cho riêng lòng mình và thấy nỗi buồn vơi đi, lòng cơ hồ bằng an và niềm vui trở lại.
NGUYỄN VIỆT ĐỨCQua tiến trình phát triển của lịch sử âm nhạc thế giới, riêng trong lĩnh vực ca khúc chúng ta đều biết có những ca khúc là của mọi thời đại, có những ca khúc chỉ của một thời, có những ca khúc chỉ của một dòng nhạc phục vụ cho nhu cầu của một lớp công chúng riêng nào đó, có những ca khúc lại phù hợp với khá nhiều lứa tuổi và đông đảo công chúng, có những ca khúc chỉ của một vài ngày, có những ca khúc mãi mãi nằm trên giấy...
NGUYỄN THỤY KHAĐọc Dòng nước trong (Ca khúc Bích Anh), Nxb Đà Nẵng, 2006
HOÀNG DIỆP LẠCCó sự gắn kết nào đó gần như là định mệnh giữa hai con người Trịnh Công Sơn và Nguyễn Xuân Hoàng. Sơn và Hoàng có cùng quê quán ở huyện Hương Trà, Thừa Thiên Huế. Và cả hai đã sinh ra ở miền cao nguyên, nơi bụi đỏ và sương mù hoà trộn, tạo thành những hạt huyết dụ trôi chảy theo các mạch máu trong thân thể của những con người xứ bụi mịt mùng.
NGUYỄN XUÂN HOÀNG(Kỷ niệm 6 năm ngày mất nhạc sĩ Trịnh Công Sơn 1/4/2001 - 1/4/2007)Với dòng - sông - Trịnh, đi về biển rộng là một cuộc hành trình trở về với nguồn cội. Dòng sông tìm về biển cả để thấy được sự mệnh mông, hùng vĩ và tuôn trào của biển cả. Tuy nhiên đấy cũng là sự bắt nguồn cho những vết xước trầm tích trong lòng người ở lại - như cọng rễ hoang nay mới đủ sức đâm lên một mầm nhói!
NGUYỄN THỤY KHAVào khoảng năm 1962 ở miền Bắc, bỗng rộ lên một bài tình ca ngắn mang tên “Giã từ”. Bài hát được truyền miệng rộng rãi và nếu có ai đó ký âm thành văn bản thì đều ghi là bài hát Liên Xô (CCCP).