Một số ý kiến về đào tạo "Văn hóa học"

10:15 07/12/2009
ĐẶNG VIỆT BÍCHGần đây trên tuần báo Văn Nghệ đã có bài viết bàn về vấn đề đào tạo "Văn hóa học", nhân dịp Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam ra nghị quyết V về xây dựng một nền văn hóa, văn nghệ tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

Vấn đề đào tạo "Văn hóa học" hiện nay đang được hai cơ quan thực hiện. Trường Đại học Văn hóa Hà Nội đã đào tạo bậc cao học. Học viên sau 3 năm theo học bậc cao học (mỗi năm 4 tháng, chia 2 kỳ) sẽ viết luận văn và bảo vệ luận văn. Nếu bảo vệ thành công luận văn các học viên sẽ được cấp bằng thạc sĩ văn hóa học. Khóa I cao học Văn hóa học được tổ chức từ năm 1993, hiện nay trường đang đào tạo khóa III và khóa IV.

Từ 1997 Viện Văn hóa Nghệ thuật (hai cơ quan trường Đại học Văn hóa Hà Nội và Viện Văn hóa nghệ thuật - có trụ sở tại thủ đô và chi nhánh tại thành phố Hồ Chí Minh - đều do Bộ Văn hóa Thông tin quản lý) tổ chức đào tạo sau đại học về văn hóa học, lấy bằng tiến sỹ văn hóa học. Trong khi đó việc đào tạo văn hóa học lại chưa được tổ chức ở trường Đại học Văn hóa Hà Nội hoặc bất kỳ cơ sở đại học nào trên phạm vi toàn quốc.

Xung quanh vấn đề đào tạo văn hóa học, có nhiều ý kiến khác nhau, cũng không phải không có người phát biểu rằng: làm gì có ngành khoa học nào gọi là văn hóa học, văn hóa học là một cái gì đó mà một số kẻ bịa ra.

Thực ra, với người Việt chúng ta ngày nay thì nhiều ngành khoa học, nhiều khái niệm khoa học do phương Tây, châu Âu đưa tới.

Mỹ học, lý luận văn học, triết học Mác - Lênin, kinh tế chính trị học, luật học, xã hội học... do người châu Âu đưa lại cho chúng ta. Có lẽ không ai phản đối khái niệm mỹ học, lý luận văn học, lý luận nghệ thuật hay sân khấu học. nhưng với khái niệm văn hóa học thì lại khác.

Một số người nào đó kịch liệt bài bác khái niệm văn hóa học, một số người khác lại nhiệt tình thành ủng hộ. Điều đó có mấy lý do.

1- Văn hóa học: là một khái niệm xuất hiện cách đây chưa lâu. Do vậy người Việt chúng ta chưa quen với thuật ngữ này cũng như cách quan niệm về thuật ngữ này. Hẳn không ai trong chúng ta lên tiếng phủ định khái niệm lý luận văn học hay mỹ học, bởi nó đã xuất hiện khá sớm, ngày nay chúng ta tiếp thu lại từ người châu Âu.

Về văn hóa học thì từ hậu bán thế kỷ XIX trong giới học giả, xuất hiện một khuynh hướng (tendence) hay trào lưu nghiên cứu về văn hóa văn hóa học, về văn hóa của các tộc người nguyên thủy... từ Taylor, Bacofen... qua Freud, Malinovskie và C.Lévy-Strauss... Xu hướng hay trào lưu này ngày một gia tăng, một phát triển và đạt nhiều thành tựu quan trọng. Ngay cả triết gia marxist nổi tiếng là Plékhanov (Nga) cũng có thể coi là một người cũng tham gia vào trào lưu văn hóa học này với tác phẩm nổi tiếng. Nghệ thuật và đời sống xã hội mà bản tiếng Pháp là L'art et la vie sociale (bản dịch tiếng Việt được dịch từ bản Pháp ngữ).

Năm 1949 học giả White sử dụng khái niệm văn hóa học (culturologia). Lần lượt một số nhà khoa học ở Liên bang Xô viết (trước đây), Cộng hòa dân chủ Đức và Cộng hòa Liên bang Đức cũng sử dụng khái niệm này. Ở CHDC Đức và CHLB Đức đều có khái niệm Kultur- wissenschft, nghĩa là khoa học văn hóa (văn hóa học)

Tại nước ta, từ sau hòa bình lập lại, người ta chú ý, thoạt tiên đến vấn đề lý luận văn học, rồi mỹ học và lý luận nghệ thuật. Dần dần giới nghiên cứu hướng sự chú ý nhiều hơn tới vấn đề văn hóa và văn hóa học. Điều này cũng tương tự như thế ở Liên bang Xô viết trước đây. Phải tới một lúc nào đó giới nghiên cứu mới ý thức được cần phải chú ý tới văn hóa và văn hóa học. Và trên phạm vi toàn cầu cũng như vậy. Mỹ học, lý luận văn học, lý luận nghệ thuật... xuất hiện trước, tới một lúc nào đó giới học giả mới chú ý tới những cái gọi là lý luận văn hóa và văn hóa học.

2- Một nguyên do khác là khái niệm văn hóa học, bản thân nó có một nội hàm rộng lớn, y như khái niệm văn hóa vậy. Ngày nay chúng ta đang chứng kiến một sự lạm phát, một sự bội thực về khái niệm văn hóa, không những có rất nhiều định nghĩa văn hóa mà người ta còn đưa ra rất nhiều những khái niệm văn hóa như văn hóa thời trang, văn hóa ẩm thực, văn hóa xí nghiệp, văn hóa kinh tế, văn hóa quân sự, văn hóa chính trị... Người ta cũng thấy các tác phẩm thuộc trào lưu văn hóa học kể trên có thể được nhiều nhà khoa học thuộc các lĩnh vực khác nhau như dân tộc học (ethuographic) tác phẩm của Sigmund Freud)... khai thác. Chính bởi vậy mà nội hàm của khái niệm văn hóa học, nhiều khi tỏ ra mênh mông, khó xác định.

Nhưng dẫu sao, theo ý riêng tôi, và cũng là ý kiến của không ít người, thì văn hóa học là một khái niệm thực, có thật, có lịch sử phát sinh và phát triển của nó. Nó là một ngành khoa học, một lĩnh vực nghiên cứu mà người ta phải chiếm lĩnh phải hoạt động, thúc đẩy sự phát triển như những ngành khoa học khác.

Ở nước ta từ sau khi các tác phẩm như Sơ yếu lịch sử văn hóa nguyên thủy của Cosven và sau đó tác phẩm Bản chất của văn hóa của Carpov được dịch ra tiếng Việt thì sự quan tâm của giới chuyên môn và dư luận xã hội với văn hóa và văn hóa học ngày một tăng.

Ta có thể kể ở đây một số tác phẩm của Phan Ngọc, Từ Chi, Trần Quốc Vượng, Trần Ngọc Thêm... dầu rằng sách của Trần Ngọc Thêm cóp nhặt khá nhiều ý kiến của Kim Định ở Sài Gòn trong thời gian từ 1956 đến 1975.

Nhiều công trình nghiên cứu về dân tộc học, văn hóa các dân tộc thiểu số, văn hóa Đông Nam Á... cũng có thể được coi là thuộc về mảng sách văn hóa học.

Nghiên cứu và giảng dạy về văn hóa học cần phải được quan tâm và đẩy mạnh hơn nữa, nhất là khi xã hội chú ý tới vai trò quan yếu của văn hóa, coi văn hóa như là động lực phát triển của xã hội cũng mục đích của sự phát triển.

Văn hóa học bao gồm trong nó hai lĩnh vực. Một là lý luận văn hóa. Hai là lịch sử văn hóa. Lý luận văn hóa nói ở đây bao gồm và bộ môn Đường lối văn hóa của Đảng. Còn lịch sử văn hóa bao gồm Lịch sử văn hóa Việt Nam và Lịch sử văn hóa thế giới. Tương ứng với Lịch sử văn hóa Việt Nam chính là bộ môn Cơ sở văn hóa Việt Nam và tương ứng với Lịch sử văn hóa thế giới là bộ môn Lịch sử văn minh nhân loại, cả hai đang được dạy tại một số trường đại học ở nước ta.

Nếu nói tới lịch sử văn hóa Việt Nam thì phải nói tới tác phẩm Việt Nam văn hóa sử cương (1938) của học giả nổi tiếng Đào Duy Anh. Sau này, vài năm sau hòa bình lập lại, cụ Đào Duy Anh còn cho xuất bản không ít tác phẩm bàn về lịch sử văn hóa, do nhà xuất bản Xây dựng ấn hành.

Hiện tại việc đào tạo văn hóa học sau đại học với hai bậc học thạc sỹ và tiến sỹ được phân cho đơn vị khác nhau là Đại học Văn hóa và Viện Văn hóa, trong khi mà việc đào tạo văn hóa học bậc đại học lại chưa có. Trong vài năm trước rõ ràng trường Đại học Văn hóa Hà Nội cần phải đào tạo bậc đại học văn hóa học, mỗi năm chừng độ 30 đến 40 sinh viên. Đây là lực lượng nòng cốt cho việc nghiên cứu và giảng dạy văn hóa học một cách chính quy, được đào tạo bài bản. Lực lượng này sẽ tham gia thì đầu vào cao học văn hóa học cũng như tiến sỹ văn hóa học, trong khi mà cử nhân một số ngành khoa học xã hội-nhân văn và nghệ thuật văn học, ngôn ngữ học, lý luận nghệ thuật (lý luận sân khấu, điện ảnh, âm nhạc, mỹ thuật...), sử học, triết học... cùng một số ngành học thuộc trường Đại học Văn hóa Hà Nội như phát hành sách, văn hóa quần chúng, bảo tồn-bảo tàng, văn hóa du lịch, quần chúng văn hóa các dân tộc thiểu số và miền núi, thư viện.

Như vậy một tổ bộ môn văn hóa học hùng mạnh tại trường Đại học Văn hóa Hà Nội là điều chúng ta cần tính tới. Thứ nữa một khoa văn hóa học tại trường là điều cần xây dựng tiếp theo. Khoa văn hóa học này có nhiệm vụ đào tạo các cử nhân văn hóa học, cung cấp cán bộ lý luận và cán bộ nghiên cứu, giảng dạy về văn hóa học cho bản thân trường Đại học Văn hóa, cho Viện Văn hóa Nghệ thuật, cho các cơ sở đại học và các cơ quan quản lý văn hóa trong phạm vi cả nước, cùng các cán bộ nghiên cứu và giảng dạy văn hóa học thuộc các trường đại học ở Việt Nam. Khoa văn hóa học cũng có nhiệm vụ giảng dạy cho sinh viên các khoa nghiệp vụ khác (không phải văn hóa học) trong toàn trường Đại học Văn hóa, như các khoa thông tin thư viện, phát hành sách, bảo tồn-bảo tàng, văn hóa quần chúng...

Về mặt tổ chức, năm 1993, đã hình thành một tổ văn hóa học với nhiều bộ phận như lý luận văn hóa, đường lối văn hóa văn nghệ của Đảng Cộng sản Việt Nam, xã hội học văn hóa...

Tuy nhiên tổ bộ môn này chỉ tồn tại trong khoảng một năm. Lý do tan vỡ của nó, chủ yếu do mối quan hệ cá nhân giữa các thành viên trong tổ. Nay là lúc sự tái thành lập của tổ bộ môn này là đòi hỏi bức xúc của sụ nghiệp đào tạo cán bộ về văn hóa học.

Xuất bản một tập giáo trình về lý luận văn hóa học là một điều cần thiết. Giáo trình về đường lối văn hóa văn nghệ của Đảng do Bộ Văn hóa Thông tin biên soạn đã có 2 quyển khác nhau. Một tập xuất bản năm 1985, một tập khác xuất bản gần đây, do hai ban biên soạn khác nhau.

Về lịch sử văn hóa chúng ta đã có 2 tập Lịch sử văn minh phương Đông Lịch sử văn minh phương Tây của Hoa Kỳ (trước đây đã được dịch và in ấn ở Sài Gòn thời ngụy) nay Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin in lại. Một vài công trình khác do người Việt biên soạn, trên cơ sở tham khảo những tác phẩm nghiên cứu của nước ngoài. Sắp tới NXB Văn hóa thông Tin sẽ cho phát hành bộ sách lớn Lịch sử phát triển khoa học, kỹ thuật, văn hóa nhân loại (L'histoire de la développement des sciences, techniques et cultures). Bộ sách quan yếu này do Unesco tổ chức biên soạn, từ 1951 đến 1968, gồm 9 tập lớn khổ 21 x 29, mỗi tập dày 750 trang (bản Pháp ngữ), được xuất bản liên tục trong 5 năm, từ 1968 tới 1973. Sự ra đời của bộ sách này bằng tiếng Việt sẽ góp phần làm phong phú thêm mảng sách về văn hóa học và sẽ là tài liệu tham khảo cần thiết cho việc giảng dạy, học tập và nghiên cứu văn hóa học. Hai bộ sách về Lịch sử văn hóa Trung Quốc đã được xuất bản.

Việc nghiên cứu văn hóa học sẽ phải bao gồm cả lĩnh vực nghiên cứu về tôn giáo. Theo cách quan niệm rộng rãi mà tác giả bản báo cáo Chủ nghĩa Mác và Văn hóa Việt Nam đã chỉ ra, thì tôn giáo thuộc về thượng tầng kiến trúc của xã hội, và cũng thuộc về phạm trù văn hóa.

Việc nghiên cứu và giảng dạy về các vùng văn hóa Việt Nam cũng rất cần thiết. Nước ta là một quốc gia đa dân tộc, địa hình phong phú và phức tạp, đất nước trải dài từ Bắc chí Nam, với nhiều vùng có đặc trưng văn hóa rất khác nhau. Thời gian vừa qua cũng có nhiều quyển sách bàn tới vấn đề này.

Như vậy Tổ văn hóa học thuộc Trường Đại học Văn hóa Hà Nội sẽ phải bao gồm cả bộ phận sau:

1-Lý luận văn hóa (kể cả Đường lối văn hóa văn nghệ của Đảng)
2-Lịch sử văn hóa
2.1-Lịch sử Văn hóa Việt Nam
2.2-Lịch sử văn hóa thế giới
2.2.1-Lịch sử văn hóa Trung Hoa
2.2.2-Lịch sử văn hóa Ấn Độ
2.2.3-Lịch sử văn hóa Nhật Bản
2.2.4-Lịch sử văn hóa Pháp
2.2.5-..........
3- Văn hóa và tôn giáo
4- Các vùng văn hóa Việt Nam.

Đ.V.B
(124/06-99)



 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • HUỲNH NHƯ PHƯƠNG

    Mở đầu bài viết này, chúng tôi xin nói đến hai sự kiện văn học diễn ra gần đây.

  • LÊ VŨ TRƯỜNG GIANG

    Chúng ta có thể nghĩ, hiểu và làm văn học theo cách riêng mà mỗi cá nhân có thể tạo lập và mục đích cuối cùng là phụng hiến cho nền văn học với những giá trị phổ quát.

  • NGUYỄN HOÀNG ANH THƯ

    Cho đến năm 2013, tôi mới bắt đầu chính thức cầm bút. Tôi miệt mài viết trong 3 năm liền, giống như một cuộc chơi càng viết càng đam mê, có lúc cảm chừng như không đủ thời gian còn lại để viết tất cả những gì mình muốn, song hành cả thơ và truyện ngắn với lối sử dụng bút pháp đa dạng, khi tả thực, khi tượng trưng, lúc huyền ảo, thơ cũng như truyện.

  • TRU SA  

    Tôi chưa từng nghĩ rằng sẽ theo văn chương. Trước đây là thế và bây giờ vẫn vậy, những gì tôi làm chỉ là viết xuống giấy những thứ sinh sôi trong cơ thể mình.

  • TRẦN BĂNG KHUÊ

    Với văn chương, tôi không biết phải nói về nó như thế nào, về việc bén duyên, hay hoàn cảnh thôi thúc tôi đến với nó. Những ý niệm này, có đôi lần tôi đã lẩn thẩn nghĩ đến, thỉnh thoảng băn khoăn một chút, rồi thì mọi sự dường như diễn tiến theo một cách nào đó tôi cũng không nắm bắt được nữa. Tự nhiên nhi nhiên vậy.

  • Như thường lệ, vào số báo đầu năm mới, Sông Hương giới thiệu đến quý bạn đọc những tiếng nói của các cây bút trẻ. Đó là những tiếng nói đầy nhiệt huyết trong khu vườn sáng tạo. Những tiếng nói ấy chứa đựng trong mình biết bao khát vọng cất tiếng, khát vọng cách tân để đưa nghệ thuật làm tròn bổn phận của nó: Làm ra cái mới.

  • TRẦN THỊ ÁNH NGUYỆT  

    Sau đổi mới, năm 1986, Việt Nam tăng tốc mở rộng kinh tế thị trường, công nghiệp hóa, hiện đại hóa khiến cho môi trường bị biến đổi.

  • NGUYỄN QUANG HUY

    Truyện Nôm bác học đã và đang được quan tâm soi chiếu từ nhiều hướng, nhiều phương pháp. Trong quá trình quan sát và khảo tả, phân tích đối tượng này, chúng tôi thấy có sự lặp lại đáng chú ý hiện tượng thân phận con người.

  • LTS: Ngoài các công trình nghiên cứu, dịch thuật Phật học, khi còn trụ thế, Hòa thượng Thích Chơn Thiện còn viết nhiều sách, báo về văn hóa dân tộc, gần đây nhất là loạt bài biên khảo Tư tưởng Việt Nam: Nhân bản thực tại luận.
    Sông Hương xin trích đăng một số trong loạt bài ấy, như là tấm lòng ngưỡng vọng đến vị Đạo cao, Đức trọng vừa thu thần viên tịch.

  • VƯƠNG TRÍ NHÀN

    Từ sau 1945, có một kiểu người viết văn đã hình thành với chỗ mạnh chỗ yếu của họ. Bài viết không có tham vọng trình bày vấn đề một cách toàn diện, mà chỉ đi vào một số khía cạnh:

  • NGUYỄN THỊ QUỲNH HƯƠNG

    Motif người hóa đá/ đá hóa người là một trong những motif phổ biến của biểu tượng đá trong truyền thuyết dân gian Việt Nam.

  • DANA GIOIA
    (Tiếp theo Sông Hương số tháng 10/2016)  

    V.
    Xem chừng thơ trong nhà trường lại nhiều hơn ở ngoài thế giới, trẻ em không được bảo cho biết tại sao lại như vậy. Hẳn các em phải ngạc nhiên.
                (Robert Frost)

  • PHẠM ĐĂNG TRÍ

    Tết năm ấy, tôi không về Huế ở lại Hà Nội, tôi nhận được một gói quà từ nhà gởi ra. Lúc mở, chỉ thấy mấy cái bánh gói giấy ngũ sắc. Ấn tượng rực rỡ này làm tôi liên tưởng đến phạm trù “ngũ sắc” của Á Đông, đã ra đời từ hàng nghìn năm nay.

  • DANA GIOIA

    Làm cho thực tại tầm thường trở thành mê hoặc.
                    [Guillaume Apollinaire]

  • TRẦN KHÁNH PHONG

    Chủ nghĩa hiện sinh khẳng định nguyên lí con người phải tự làm ra chính mình, chứ không trông chờ vào ai khác, cho dù tồn tại có bi đát, ngặt nghèo.

  • Nếu lấy mốc thời điểm năm 1919 để xét đoán Different from the others là bộ phim đầu tiên trực diện về đề tài đồng tính, thì đến nay, lịch sử khai thác đề tài “cấm kỵ” này đã có một hành trình dài gần như song song cùng với sự ra đời của nghệ thuật thứ 7. Với tính chính trị xã hội và đạo đức, cho đến nay, đây vẫn là một vấn đề hết sức đặc biệt trong mọi loại hình nghệ thuật. Lịch sử điện ảnh đã ghi nhận rất nhiều bộ phim với những diễn ngôn tư tưởng khác nhau, thậm chí đối lập. Yêu cầu cấp thiết đặt ra, đó là việc phải “nhận thức lại thực tại”, đặt ra/xác quyết lại quan điểm của công chúng về một tầng lớp người vốn bị xem như “bệnh hoạn”/“lạc loài”…

  • ĐỖ TRINH HUỆ

    Cadière đến Việt Nam cuối thế kỷ 19 và hoạt động văn hóa những năm đầu thế kỷ 20, vào thời điểm mà người Pháp còn mang tư tưởng nước lớn và mẫu gương của nhân loại trong nhiều lĩnh vực.

  • NGUYỄN THỊ BÍCH HẢI

    Thiên tài nghệ thuật của Nguyễn Du được biểu hiện ở nhiều phương diện. Chẳng hạn như năng lực phát hiện vấn đề, phát hiện những nghịch lý, năng lực cảm thông với những nỗi khổ đau của con người, tài năng cấu tứ, tài năng sử dụng ngôn ngữ, thánh thơ lục bát,…

  • VĂN HỌC VIỆT NAM 30 NĂM ĐỔI MỚI   

    NGUYỄN HỒNG DŨNG