Một số vấn đề về “Xuân thu nhã tập”

10:15 01/12/2008
TRẦN HUYỀN SÂM1. Theo tôi, cho đến nay, chúng ta chưa có những đánh giá xác đáng về hiện tượng Xuân Thu nhã tập: Cả trên phương diện lý thuyết lẫn thực tiễn sáng tác. Có phải là nguyên do, nhóm này đã bị khoanh vào hai chữ “BÍ HIỂM”?

Trong tiến trình của văn học Việt , tôi nghĩ, hiếm có nhóm sáng tác nào lại độc đáo như Xuân Thu nhã tập. Độc đáo về chủ thể sáng tác, về đặc điểm thể loại và độc đáo về lịch sử số phận tác phẩm. Xuân Thu chỉ tồn tại trong vòng mấy năm (1942-1945), và chỉ gồm mấy tác giả, nhưng lại hội tụ đầy đủ cả “đại gia đình” nghệ thuật: Thơ ca, âm nhạc, hội họa. Số lượng sáng tác cũng rất “khiêm tốn” nhưng lại rất đa dạng về thể loại: thơ, văn xuôi, tiểu luận. Mục đích sáng tác cũng khá độc đáo ”Dưới bóng Xuân Thu sẽ thực hiện: TRÍ THỨC - ĐẠO ĐỨC - SÁNG TẠO.

2. Xuân Thu nhã tập ra đời khi Thơ mới đã rơi vào bế tắc, khủng hoảng. Cái tôi- mảnh đất linh diệu của Thơ mới đã được đào sâu đến tận cùng, và lúc này, đã mất hết sức sống. Trong xu thế đó, Xuân Thu đã trăn trở và tìm một hướng đi mới cho thơ ca dân tộc: “Tìm con đường thực, nối liền nguồn gốc xưa với ước vọng nay. Gọi về những tính cách riêng của ta, để có thể xuôi chảy trong cái dòng sống thực của ta, không quanh co, lúng túng vì những ảnh hưởng ngoài” (1).
Là một nhóm nghệ thuật có tính tổ chức, Xuân Thu nhã tập có hẳn một nguyên lí sáng tác, một hệ thống quan điểm nghệ thuật riêng. Ngay từ khi ra đời, Xuân Thu đã mang một tinh thần tiên phong với ý thức cách tân táo bạo. Mục đích cách tân thể hiện trên hai phương diện:
- Không lặp lại cái tôi của Thơ mới
- Chống lại sự đồng hóa của phương Tây để ngăn cái họa mất gốc.    
Xuân Thu nhã tập
là một hiện tượng nghệ thuật tiên phong, một trong những đặc trưng của xu hướng chủ nghĩa hiện đại ở Việt Nam - như cách nói của Nohire Munehiro, một nghiên cứu sinh Nhật Bản, tại Việt Nam (2). Nhìn từ phương diện này, Xuân Thu nhã tập có một vị trí đặc biệt trong lịch sử văn học dân tộc.

3. Giá trị lớn nhất và ấn tượng sâu nhất của Xuân Thu nhã tập, đó là phần tiểu luận về thơ. Bằng những kiến giải độc đáo, Xuân Thu nhã tập đã nêu được những vấn đề lý luận cơ bản của thơ ca như: đặc trưng của thơ so với văn xuôi, mối quan hệ giữa thi nhân và bạn đọc, thơ ca với âm nhạc, hội họa. Có thể rút ra một số luận điểm cơ bản sau của nhóm Xuân Thu nhã tập:
* Thơ là gì?
Câu hỏi cổ xưa này đã được Xuân Thu luận giải một cách khá lý thú. Thơ là sự rung động, sự quyến rũ- không thể cưỡng lại, một cách tự nhiên, hoàn toàn. Thơ - vì thế, không cần để hiểu mà cốt để cảm. Thơ được ví như giai Nhân, như Đẹp, như Trời. Trước lúc chưa kịp hiểu nó là gì, ta đã bị nó quyến rũ, lôi kéo, xâm chiếm: “Áng thơm của hoa, vẻ trong của nước, thần của vạn vật, thơ của văn nghệ. Trước khi thưởng thức hương, nhận chân sắc, dò hỏi trời, phân tích vui, trước khi dùng những phương thức lí trí, có ý thức, có hệ thống để phán đoán, để hiểu biết, ta đã chịu sự quyến rũ của mùi thơm, sự lan tràn của ý thích, ta đã cảm thấy đẹp, đạt được thật, đầm trong thơ, nát bàn nghệ thuật”.

Thơ được Xuân Thu nhã tập đồng nghĩa với Trong, Đẹp, Thật. Thơ là một phạm trù thiêng liêng, cao quí, là một trí thức cao cấp sánh với tình yêu, nẻo đạo và tôn giáo: “Thơ trước hết phải là sự trong trẻo, sự vô tư lợi, sự khêu gợi không cùng, sự rung động tức khắc, sự gặp gỡ đột nhiên, sự hiến dâng không nghĩ đến trở về”.
Đưa thơ vào phạm trù của đạo, xem thơ là một thứ cao siêu như tôn giáo, Xuân Thu nhã tập đã rút ra một nguyên lý căn bản (trong mối quan hệ) giữa thơ ca với vũ trụ:  ĐẠO - ÂM + DƯƠNG - SÁNG TẠO - RUNG ĐỘNG - THƠ - ĐẠO
Nằm trong vòng tương sinh trên, thơ mới đạt đến sự siêu việt, trong trẻo, nhịp nhàng, mới vươn đến cái tuyệt đối, cái đẹp- lẽ cuối cùng.

* Đặc trưng của thơ so với văn xuôi
Từ góc độ tư duy nghệ thuật và chức năng thơ ca, Xuân Thu đã khu biệt nét đặc trưng của thơ so với văn xuôi. Thơ không thuộc về lý trí, mà thuộc về tình cảm: “Văn nói chuyện đời, nhưng thơ chính là tiếng đời u huyền, trực tiếp”. Văn xuôi có tính vụ lợi, thơ không mang tính vụ lợi, không mang nghĩa tục. Văn xuôi thường kích động người đọc một cách thô sơ, dễ dãi; còn thơ:” là cái gì huyền ảo, tinh khiết, thâm thúy, cao siêu, cái hình ảnh sự khắc khoải bất diệt của muôn sự vật: cõi vô cùng”.
Tính hàm súc, đa nghĩa, gợi cảm chính là đặc điểm cơ bản nhất để phân biệt thơ và văn xuôi: “Một bài thơ không được hiểu như một bài văn một cách lộ liễu, nhất định. Phải chứa nhiều sức khêu gợi, ý ở ngoài lời, đủ với sự thật sâu sắc, bao la trong toàn thể ”.

* Đặc tính của thơ ca PhươngĐông
Tính cô đọng, hàm súc của thơ, theo Xuân Thu có nguồn gốc sâu xa từ đặc tính của người Á Đông. Ngôn ngữ phương Đông rất phù hợp cho tính chất của thơ, nó có thể:“phát hiện bằng toàn hình ảnh, hương sắc, xếp đặt một cách u uẩn”. Thơ phương Đông thường dồn nén, cốt gợi hơn là tả. Vì thê, theo họ: “Ảnh hưởng phương Tây có thể tốt cho văn hơn cho thơ. Luận điệu phương Tây có thể giúp cho lối diễn đạt tư tưởng của ta được có phương pháp, nhưng không thể và không nên chen vào lối diễn tả cảm giác riêng của ta, cái đẹp riêng của ta. Phần trên là phần chung có tính phổ thông - phần văn. Nhưng phần dưới là đặc biệt từng dân tộc, linh khí từng giang sơn - phần thơ".
Xuân Thu nhã tập khẳng định tính chất uẩn khúc, huyền ảo trong thơ tượng trưng Pháp ở thế kỷ XIX - điều mà lâu nay người ta cho rằng, chúng ta ảnh hưởng của phương Tây, thì thực ra “người Á Đông ta có cái trí cổ sơ, trực giác ngay từ lúc đầu, nhờ một ngôn từ đặc biệt“. Vì vậy, họ kêu gọi: “Tìm thơ vĩnh viễn, ta trở về nguồn: TA”.

* Tính chất tượng trưng, huyền bí...
Trở về với tính hàm súc, tính đa nghĩa của thơ ca cổ điển phương Đông, Xuân Thu nhã tập đã bắt gặp tính ám gợi, tính biểu tượng của chủ nghĩa tượng trưng phương Tây. Đi từ cái Tôi đến cái Ta, từ công thức: “Thơ = Trong = Đẹp = Thật” và bằng tuyên ngôn sáng tác: ”Trí thức, Sáng tạo, Đạo lý“, Xuân Thu đã tạo ra những thi phẩm đậm tính chất tượng trưng, siêu thực. Khát khao đi tìm cái đẹp, họ ngụp lặn trong thế giới vô cùng, chìm sâu trong cõi hư vô, huyền bí: “Quên cái đã gặp, ngã về cái chưa tìm, nhớ cái sẽ mất“. Một số quan niệm về thơ của Xuân Thu nhã tập rất giống với quan niệm của Valéry. Chẳng hạn, quan niệm về tính nhạc, tính huyền diệu, tính trong trẻo, gợi cảm của thơ ca.

Không chỉ gặp chủ nghĩa tượng trưng trong một vài ý tưởng kiến giải về thơ, mà những sáng tác của nhóm Xuân Thu đã biểu hiện rõ thi pháp của chủ nghĩa tượng trưng. Chính Nguyễn Xuân Sanh cũng thừa nhận rằng, Buồn xưa là bài thơ đầu tiên có khuynh hướng tượng trưng.
Hầu hết, các sáng tác của Xuân Thu nhã tập đã vượt lên tính xúc cảm, tính chất giãi bày cái tôi cá nhân của Thơ mới. Xuân Thu đã tiến đến chủ nghĩa tượng trưng ở tính ám gợi, tính biểu tượng, tính mơ hồ, huyền bí. Hoài Thanh cho bài thơ Màu thời gian của Đoàn Phú Tứ là một lối thơ rất tinh tế và kín đáo, nhưng hình ảnh mờ:      
Màu thời gian không xanh
Màu thời gian tím ngát
Hương thời gian không nồng
Hương thời gian thanh thanh

Màu thời gian
của Đoàn Phú Tứ có thể xem là bài thơ trong trẻo, gợi cảm, đáng yêu nhất của Xuân Thu nhã tập. Nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát đã “chuyển hóa” bài thơ thành một bản nhạc huyền diệu. Tác giả của Thi nhân Việt Việt đã hạ bút, mà rằng: “Trong thơ ta có lẽ không có bài nào khác tinh tế và kín đáo như thế”.
Đến Buồn xưa, Hồn ngàn mùa, Bình tàn thu của Nguyễn Xuân Sanh thì đã rơi vào cõi siêu thực, hư vô. Người đọc không dễ tìm được mã để giải nghĩa văn bản. Dường như nhà thơ sáng tạo trong một trạng thái vô thức, siêu thăng. Tính triết lý không vượt qua được tính siêu thực để mang lại sự lôgich cho bài thơ. Chẳng hạn ở bài thơ Buồn xưa:
Lẵng Xuân
Bờ giũ trái xuân sa
Đáy đĩa mùa đi nhịp hải hà
Tỳ bà sương cũ đựng rừng xa           
Tôi thử làm một thao tác là: đảo lộn thứ tự các khổ thơ trong văn bản nghệ thuật trên, nhưng nghĩa của nó cũng không có gì thay đổi. Chứng tỏ những câu chữ, hình ảnh ở đây được tuôn ra trong một trạng thái vô thức, khó nắm bắt. Nhân vật trữ tình như chìm trong cõi hư vô, tan biến thành từng mảnh để nhập vào các biểu tượng.

Câu thơ Đáy đĩa mùa đi nhịp hải hà đã hơn một lần được “siêu độc giả” cắt nghĩa, nhưng xem ra chẳng tìm được nghĩa đích thực (điều đó cũng dễ hiểu, vì Xuân Thu nhã tập chủ trương; thơ không cần rõ nghĩa, chỉ cần gợi cảm và rung cảm). Câu thơ này đã mở ra nhiều trường liên tưởng khác nhau. Và nghĩa đích thực của nó nằm trong các cách cảm nhận của độc giả. Đúng như Xuân Thu nhã tập chủ trương: “Một bài thơ có thể hiểu ra nhiều lối dù có cảm một cách duy nhất. Nên độc giả tùy theo trình độ trí thức mà hưởng thụ ít hay nhiều. Cùng một ánh trăng, cùng một nụ cười, cùng một tiếng đờn, kẻ dung - phu hay người tài tử có lẽ chung một thứ cảm, là rung động, nhưng phong phú không bằng nhau. Nên thi ca cũng phân nhiều bậc. Tiếng thơ trong bài này chẳng qua đã hiểu theo nghĩa cao đẳng vậy. Độc giả lĩnh hội được hay không, tưởng không phải điều quan tâm của thi sĩ. Thi sĩ đi tìm thơ, tìm lẽ thật, tìm mình. Phận sự chỉ ở đó. Nguyên nhân lòng ham mê chỉ ở đó”.
Tôi nghĩ, các tác phẩm của nhóm Xuân Thu không hẳn hoàn toàn rơi vào kín mít, bí hiểm. Điều cơ bản là chúng ta phải tìm ra “mã” của văn bản. Người ta cho rằng, đọc Xuân Thu nhã tập mặc dù không rõ nghĩa nhưng vẫn thấy hay. Khi nghệ thuật đã mang đến cái hay, hẳn đã có lý của nó.

* Thơ ca với âm nhạc, hội họa
Mối quan hệ này không có gì mới, nhưng Xuân Thu có cách kiến giải mới, và khá bất ngờ. Nếu cổ nhân nói: "Thi trung hữu họa, thi trung hữu nhạc, thì Xuân Thu nói ngược lại: trong nhạc, trong họa có thơ và thơ “tàng ẩn” ở khắp mọi sự vật hiện tượng: “Thơ có thể có trong âm nhạc, hội họa, trong kiến trúc nói rộng ra ở khắp ngành nghệ thuật, và cả trong đạo lý, trong hành động, một khi đã gạn lắng những cặn đục mà còn tinh hoa”. Một mỹ nhân một con bò không có gì khác, chỉ khác ở chỗ hình ảnh nào mang lại cho ta xúc cảm. Ta cũng không nên băn khoăn về lẽ thiện ác ở các sự vật đó, mà chủ yếu chú trọng đến cái đẹp do nó gây nên (quan niệm này có vẻ giống với Baudelaire - đại biểu xuất sắc của chủ nghĩa tượng trưng - symbolisme).

Âm nhạc, hội họa, thơ ca sở dĩ khác các hiện tượng khác chính là ở chỗ, nó mang lại cho ta cái đẹp vô cùng, cái đẹp tuyệt đối và cái đẹp siêu việt: ”Bằng con đường thẳng của hình ảnh, tiết tấu,... âm thanh, màu sắc, mùi, giọng được hòa hợp thành những biểu hiện nhịp nhàng để khêu gợi những rung động siêu việt của bản nhạc vô - cùng”.
Tuy nhiên, thơ ca khác với âm nhạc, hội họa ở chỗ: “Một bài thơ là do sự phối hợp những âm thanh, chữ, hình ảnh... theo những niêm luật rõ rệt hay tiềm tàng, để khơi nguồn lưu thông cái run rẩy huyền diệu của thơ. Nó tràn sóng qua người đọc, được rung động theo nhịp điệu của tuyệt đối”.
Nguyên nhân sâu xa của sự khác nhau, đó là do phương thức biểu hiện. Thơ ca nói riêng và văn chương nói chung có “lợi khí” hơn so với các loại hình khác, đó là ngôn ngữ. Ngôn ngữ có thể giúp ta “cảm thông đến cái vô cùng”, thấu đạt đến “mọi nghĩa lý” và thâm nhập vào cái đẹp tuyệt đối của vũ trụ.

* Thi sĩ với bạn đọc (Chủ thể sáng tạo và chủ thể tiếp nhận)
Xuân Thu
cũng đã lý giải rất độc đáo về mối quan hệ giữa nhà thơ - tác phẩm - bạn đọc. Họ gọi nhà thơ là “thi sĩ”, người đọc là “thi nhân”, còn bài thơ là “khúc hợp tấu của vô cùng”. Cả ba “phải được lên dây cùng cung bậc” để hòa điệu như cây đàn, thi sĩ với tình nhân. Người đọc muốn cảm nhận được cái “trác tuyệt”, cái thần bí tuyệt vời của khúc nhạc ấy, đòi hỏi phải “có chất thơ, có cốt đàn, có nòi tình”. Thi sĩ cũng phải cần đến một tri âm (thi nhân - tức người đọc) để thưởng thức, để cảm thông, để tiếp tục hoàn thiện “khúc nhạc vô cùng” ấy: “Thi sĩ làm xong một bài thơ có thể nói: Bản Đẹp chưa thành, vì còn chờ tác giả thứ hai: người đọc. Cảm xúc chuyển từ người thơ sang độc giả, hòa hợp hai lẽ siêu hình, con sông thơ lộng một trời mới. Người đọc phải là thi nhân, tái tạo vũ trụ bài thơ tạo ra”. Từ góc độ tiếp nhận văn học, chúng ta gọi hiện tượng này là người đọc đồng sáng tạo.

 “Thơ
như thần linh: con đồng là thi sĩ tạo được bài thơ - cảm thông, nối thần linh đến với đệ tử là thi nhân. Thơ như tôn giáo: giáo sĩ thi sĩ tạo nên “bài thơ giác ngộ” cho tín đồ là thi nhân. Thơ như tình yêu: thi sĩ là người cung nữ thả “bài thơ lá thắm”, người vớt lá là thi nhân".
Giữa người đọc và nhà thơ phải tri âm, tri kỷ như Bá Nha và Tử Kỳ. Muốn tạo ra bản đàn tuyệt diệu để “truyền sóng” sang người đọc, thì thi sĩ phải “nhập thần” vào đối tượng: “Thi sĩ cảm trong chiếc lá, khi đã nằm hẳn trong chiếc lá, hòa trộn trong cái lẽ thật muôn đời, là cái tính túy muôn vật, là chất thơ muôn nguồn gốc. Thi sĩ từ trong chiếc lá, mà rung động ra ngoài và đã chiếm đoạt hoàn toàn chiếc lá, đã cùng nó hợp một; có một phút thi sĩ đã là chiếc lá". Có nằm trong thơ, dầm trong nhạc, người đọc mới có thể “biết đầy đủ sự trong trẻo, nhịp nhàng” của thế giới thơ ca.

Đòi hỏi thi sĩ phải “tan hồn vào cảnh vật”, người đọc phải “nhập thần vào bài thơ”, tác giả Xuân Thu đã chạm phải thuyết trực giác của Bergson. Dùng lý thuyết hiện đại của phương Tây để soi vào tính chất “hàm súc, tĩnh mạc, tổng hợp” của thơ ca phương Đông, Xuân Thu đã tìm ra một số hạt nhân hợp lý trong quy luật sáng tạo nghệ thuật.
Tóm lại, đi tìm cái đẹp vô biên - không cùng, cái đẹp tuyệt đối của nghệ thuật, Xuân Thu đã có ý thức khẳng định bản lĩnh sáng tạo. Xuân Thu đã thể hiện một quan niệm nghệ thuật mới, có tính tiên phong: vượt lên bát nháo của hiện thực, tìm về cội nguồn để hướng tới tương lai.

4. Một số hạn chế của Xuân Thu nhã tập
Thứ nhất,
quan niệm của Xuân Thu về cuộc đời (phần Đại thừa) và quan niệm về nghệ thuật (phần Tiểu thừa) đầy tính chất mâu thuẫn. Chủ trương trở về cội nguồn - ngăn cái họa mất gốc, nhưng Xuân Thu đã ảnh hưởng sâu sắc chủ nghĩa tượng trưng, siêu thực của phương Tây. Các khái niệm mà họ đưa ra cũng đầy màu sắc triết học phương Tây, pha lẫn với những ý niệm của Phật giáo phương Đông.
Thứ hai, Xuân Thu đã phân biệt rõ đặc trưng giữa thơ so với văn xuôi, nhưng cuối cùng lại đưa “một trang Bergson, một thiên Trang Tử, một vở Musset, một chuyện Bồ Tùng Linh” vào phạm trù của thơ.

Thứ ba, Xuân Thu
chủ trương: thơ  phải trong - đẹp - thật, nhưng phần lớn sáng tác của họ lại rơi vào bí hiểm. Các bài thơ của Xuân Thu phần lớn khó hiểu, không hợp với thị hiếu và tư duy của công chúng bạn đọc Việt . Bởi vậy, giữa thi nhân (tác giả) và thi sĩ (bạn đọc) đã không thể cùng hòa mình vào chiếc lá (bài thơ) - như Xuân Thu đã bày tỏ ở trên.
Đây cũng là một bài học cho nhóm Thơ tân hình thức (tạm gọi như vậy đối với những cây bút trẻ) hiện đang có ý thức thể nghiệm thơ ca.

Sáng tạo nghệ thuật là một hình thức giãi bày tình cảm. Chủ thể sáng tạo cần có sự chia sẻ và thấu cảm của bạn đọc. Không có bạn đọc thì tác phẩm chỉ là một văn bản chết cứng, một đống giấy loại, một trang nhật ký của cá nhân nghệ sĩ. Động lực lớn nhất của sự sáng tạo và lý do duy nhất của sự tồn tại tác phẩm, đó là sự cộng hưởng của độc giả. Muốn tạo ra sự cộng hưởng, giao thoa đó, người cầm bút phải biết nhu cầu của công chúng. Kinh nghiệm trong lịch sử văn học cho thấy, những tác phẩm có giá trị, chính là những tác phẩm, mà ở đó, tiếng nói của cá nhân nghệ sĩ, bắt gặp tiếng nói chung của đồng loại. Vì sao phong trào Thơ mới thành công lớn như vậy? Nó có nhiều nguyên nhân. Nhưng theo tôi, một trong những lý do căn bản nhất, đó là các nhà thơ mới đã thấu hiểu được niềm khao khát của bạn đọc. Điều này đã thể hiện rõ qua tâm sự của Lưu Trọng Lư: “Người thanh niên Việt Nam chỉ ao ước có một điều, một điều mà khát khao hơn trăm nghìn điều khác, là được một thi nhân hiểu mình...Người thanh niên Việt nam đang bơ vơ đi tìm người thi nhân của mình như người con đi tìm mẹ, có ai thấy cái cảnh thảm thiết ấy không?” (Phụ nữ tân văn, số 216, 1932).

Tuy nhiên, xét về sự hạn chế của nhóm Xuân Thu nhã tập, các nhà nghiên cứu cũng nên lưu ý một điểm (thuộc về nguyên nhân khách quan). Do bị “ức chế của lịch sử”, thời gian để nhóm này thể nghiệm quá ít. Nung nấu thành lập từ năm 1939, xuất bản tập Xuân Thu năm 1942, sau đó bị làn sóng cách mạng cuốn hút. Như vây, họ đâu còn thời gian tiếp tục tinh thần sáng tạo của nhóm Xuân Thu đề ra?
Xuân Thu nhã tập từng được đánh giá như một “hiện tượng nghệ thuật độc đáo, lý thú”, những “trang viết tuyệt vời”. Xuân Thu cũng đã từng bị xem như những gì tắc tị, tăm tối, bí hiểm. Nếu tránh được những ý kiến cực đoan, biết gạt bỏ những hạn chế tất yếu của Xuân Thu, chúng ta có thể tìm thấy những hạt nhân hợp lý, những giá trị đích thực để vận dụng vào công cuộc đổi mới của văn học hôm nay.
T.H.S

(nguồn: TCSH số 207 - 05 - 2006)

 



----------------------------------------
(1) Các trích dẫn lấy từ cuốn Xuân Thu nhã tập, NXB Văn học, 1992.
(2) Nohire Munehiro - Một số đặc trưng về tinh thần tiên phong của nhóm Xuân Thu nhã tập, Tạp chí văn học, số 10, 1997, tr.70.

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TRẦN THÁI HỌCCó lẽ chưa bao giờ các vấn đề cơ bản của lý luận văn nghệ lại được đưa lên diễn đàn một cách công khai và dân chủ như khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới. Vấn đề tuyên truyền trong nghệ thuật tuy chưa nêu thành một mục riêng để thảo luận, nhưng ở nhiều bài viết và hội nghị, chúng ta thấy vẫn thường được nhắc tới.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠO...Một câu ngạn ngữ Pháp nói rằng: “Khen đúng là bạn, chê đúng là thầy”. Câu ngạn ngữ này đúng trong mọi trường hợp, và riêng với văn học, Hoài Thanh còn vận thêm rằng: “Khen đúng là bạn của nhà văn, chê đúng là thầy của nhà văn”...

  • BẢO CHI                 (lược thuật)Từ chiều 13 đến chiều 15-8-2003, Hội nghị Lý luận – Phê bình văn học (LL-PBVH) toàn quốc do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức đã diễn ra tại khu nghỉ mát Tam Đảo có độ cao 1.000 mét và nhiệt độ lý tưởng 23oc. Đây là hội nghị nhìn lại công tác LL-PBVH 28 năm qua kể từ ngày đất nước thống nhất và sau 54 năm Hội nghị tranh luận Văn nghệ tại Việt Bắc (1949). Gần 200 nhà LL-PB, nhà văn, nhà thơ, nhà báo và khách mời họp mặt ở đây đã làm nóng lên chút đỉnh không khí ôn hoà của xứ lạnh triền miên...

  • ĐỖ LAI THÚY                Văn là người                                  (Buffon)Cuốn sách thứ hai của phê bình văn học Việt Nam, sau Phê bình và cảo luận (1933) của Thiếu Sơn, thuộc về Trần Thanh Mại (1911 - 1965): Trông dòng sông Vị (1936). Và, mặc dù đứng thứ hai, nhưng cuốn sách lại mở đầu cho một phương pháp phê bình văn học mới: phê bình tiểu sử học.

  • ĐẶNG TIẾNThuật ngữ Thi Học dùng ở đây để biểu đạt những kiến thức, suy nghĩ về Thơ, qua nhiều dạng thức và trong quá trình của nó. Chữ Pháp là Poétique, hiểu theo nghĩa hẹp và cổ điển, áp dụng chủ yếu vào văn vần. Dùng theo nghĩa rộng và hiện đại, theo quan điểm của Valéry, được Jakobson phát triển về sau, từ Poétique được dịch là Thi Pháp, chỉ chức năng thẩm mỹ của ngôn từ, và nới rộng ra những hệ thống ký hiệu khác, là lý thuyết về tính nghệ thuật nói chung. Thi Học, giới hạn trong phạm vi thi ca, là một bộ phận nhỏ của Thi Pháp.

  • TRẦN CAO SƠNTriều Nguyễn tồn tại gần 150 năm, kể từ khi Nguyễn Ánh lên ngôi hoàng đế với niên hiệu Gia Long - năm1802, tạo dựng một đế chế tập quyền trên toàn bộ lãnh thổ mà trước đó chưa hề có. Trải qua một thế kỷ rưỡi tồn tại, vinh hoa và tủi nhục, Triều đại Nguyễn là một thực thể cấu thành trong lịch sử Đại Việt. Những cái do triều đình Nhà Nguyễn mang lại cũng rất có ý nghĩa, đó là chấm dứt cuộc nội chiến, tranh giành quyền lực, xương trắng máu đào liên miên mấy thế kỷ, kiến tạo bộ máy quản lý hành chính trung ương tập quyền thống nhất mà Quang Trung - Nguyễn Huệ đã dày công vun đắp gây dựng trước đó. Dân tộc đã phải trải qua những năm tháng bi hùng với nhiều điều nuối tiếc, đáng bàn đáng nói ngay ở chính hôm nay. Song lịch sử là lịch sử, đó là một hiện thực khách quan.

  • TRẦN HUYỀN SÂMNếu nghệ thuật là một sự ngạc nhiên thì chính tiểu thuyết Thập giá giữa rừng sâu là sự minh định rõ nhất cho điều này. Tôi bàng hoàng nhận ra rằng, luận thuyết: con người cao quý và có tình hơn động vật đã không hoàn toàn đúng như lâu nay chúng ta vẫn tin tưởng một cách hồn nhiên. Con người có nguy cơ sa xuống hàng thú vật, thậm chí không bằng thú vật, nếu không ý thức được giá trị đích thực của Con Người với cái tên viết hoa của nó. Phải chăng, đây chính là lời nói tối hậu với con người, về con người của tác phẩm này?

  • HOÀNG NGỌC HIẾN           ...Từ những nguồn khác nhau: đạo đức học, mỹ học, triết học xã hội-chính trị, triết học xã hội-văn hoá... cảm hứng triết luận trong nghiên cứu, phê bình văn học là nỗ lực vượt lên trên những thành kiến và định kiến hẹp hòi trong sinh hoạt cũng như trong học thuật. Những thành kiến, định kiến này có khi lại được xem như những điều hiển nhiên. Mà đã là “hiển nhiên” thì khỏi phải bàn. Đây cũng là một thói quen khá phổ biến trong nhân loại. Cảm hứng triết luận trong nghiên cứu, phê bình có khi bắt nguồn từ suy nghĩ về chính những điều “hiển nhiên” như vậy...

  • THÁI DOÃN HIỂUVào đời, Lưu Quang Vũ bắt đầu làm thơ, viết truyện, rồi dừng lại nơi kịch. Ở thể loại nào, tài năng của Vũ cũng in dấu ấn đậm đà làm cho bạn đọc cả nước đi từ ngạc nhiên đến sửng sốt. Thơ Lưu Quang Vũ một thời được lớp trẻ say sưa chép và thuộc. Kịch Lưu Quang Vũ một thời gần như thống trị sân khấu cả nước.

  • TRẦN THANH ĐẠMTrong lịch sử nước ta cũng như nhiều nước khác, thời cổ - trung đại cũng như thời cận - hiện đại, mỗi khi một quốc gia, dân tộc bị xâm lược và chinh phục bởi các thế lực bên ngoài thì trong nước bao giờ cũng phát sinh hai lực lượng: một lực lượng tìm cách kháng cự lại nạn ngoại xâm và một lực lượng khác đứng ra hợp tác với kẻ ngoại xâm.

  • ĐỖ LAI THUÝLTS: Trong số tháng 5-2003, Sông Hương đã dành một số trang để anh em văn nghệ sĩ Huế "tưởng niệm" nhà văn Nguyễn Đình Thi vừa qua đời. Song, đấy chỉ mới là việc nghĩa.Là một cây đại thụ của nền văn nghệ cách mạng Việt Nam, Nguyễn Đình Thi toả bóng trên nhiều lĩnh vực nghệ thuật. Bằng chứng qua các bài viết về ông sau đây, Sông Hương xin trân trọng dành thêm trang để giới thiệu sâu hơn, có hệ thống hơn về Nguyễn Đình Thi cùng bạn đọc.

  • ĐẶNG TIẾN…Nguyễn Đình Thi quê quán Hà Nội, nhưng sinh tại Luang Prabang, Lào, ngày 20/12/1924. Từ 1931 theo gia đình về nước, học tại Hải Phòng, Hà Nội. Năm 1941 tham gia Thanh Niên cưú quốc, 1943 tham gia Văn hóa cứu quốc, bị Pháp bắt nhiều lần. Năm 1945, tham dự Quốc Dân Đại hội Tân Trào, vào Ủy ban Giải phóng Dân tộc. Năm 1946, là đại biểu Quốc hội trẻ nhất, làm Ủy viên Thường trực Quốc hội, khóa I…

  • HỒ THẾ HÀ          Hai mươi lăm năm thơ Huế (1975 - 2000) là một chặng đường không dài, nhưng nó diễn ra trong một bối cảnh lịch sử - thi ca đầy phức tạp. Cuộc sống hàng ngày đặt ra cho thể loại những yêu cầu mới, mà thơ ca phải làm tròn sứ mệnh cao cả với tư cách là một hoạt động nhận thức nhạy bén nhất. Những khó khăn là chuyện đương nhiên, nhưng cũng phải thấy rằng bí quyết sinh tồn của chính thể loại cũng không chịu bó tay. Hơn nữa, đã đặt ra yêu cầu thì chính cuộc sống cũng đã chuẩn bị những tiền đề để thực hiện. Nếu không, mối quan hệ này bị phá vỡ.

  • JAMES REEVESGần như điều mà tôi hoặc bất kỳ nhà văn nào khác có thể nói về một bài thơ đều giống nhau khi nêu ra ấn tượng về điều gì đấy được in trên giấy. Tôi muốn nhấn mạnh rằng đây không phải là toàn bộ sự thật. Việc in trên giấy thực ra là một bài thơ gián tiếp. Sẽ dễ dàng thấy điều này nếu chúng ta đang nói về hội hoạ hoặc điêu khắc.

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP...Nguyễn Huy Thiệp không phải là người duy nhất đổi mới phương thức trần thuật. Trước ông đã có Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng... tích cực mở đường. Nhưng phải đến Nguyễn Huy Thiệp thì sự khai phóng về tư tưởng nghệ thuật mới được thể hiện một cách đậm nét. Tất cả được Nguyễn Huy Thiệp kiến tạo qua một trò chơi đầy tính bất ngờ. Giống như người nghệ sĩ ba lê tài năng, Nguyễn Huy Thiệp trình diễn một thế giới đa sắc trên đầu những đầu mũi ngón chân. Những ngón chân ấy bám trụ vào hiện thực một cách tinh diệu, xoay chuyển một cách nhịp nhàng với những vòng quay, những vũ điệu ngôn từ...

  • PHAN NGỌC THUTrong nền văn học Việt Nam thế kỷ XX, Xuân Diệu (1916-1985) là một trong những nhà thơ nổi tiếng nhất, đồng thời cũng là nhà phê bình văn học kiệt xuất. Từ những bài tranh luận văn học sôi nổi thời Thơ Mới (1932-1945) đến Tiếng thơ (1951), Những bước đường tư tưởng của tôi (1958); từ Phê bình giới thiệu thơ (1960) đến Trò chuyện với các bạn làm thơ trẻ (1961), Dao có mài mới sắc (1963), Lượng thông tin và những kỹ sư tâm hồn ấy (1978), Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, tập I (1981), tập II (1982) và Công việc làm thơ (1984)... "chỉ tính riêng các tác phẩm lý luận phê bình, đã có thể gọi Xuân Diệu là một đại gia"(1)

  • BÙI QUANG TUYẾNThơ mới là một hiện tượng nổi bật của văn học Việt Nam nói chung và thơ ca nói riêng trong thế kỷ XX. Nó vừa ra đời đã nhanh chóng khẳng định vị trí xứng đáng trong nền văn học dân tộc với các "hoàng tử thơ": Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử v..v...

  • HÀ KHÁNH CHINgày 20 - 3 - 2003, siêu cường lớn nhất mọi thời đại là đế quốc Hoa Kỳ đã mở đầu cuộc chiến tranh kỳ quái nhất trong lịch sử bằng cách tấn công Iraq sau khi đã bắt quốc gia này phải tự phá huỷ vũ khí tự vệ của chính họ. Đó là bài học chưa hề thấy về chút hy vọng cuối cùng mà lương tri nhân loại có thể đòi hỏi. Để có thể hiểu rõ hơn những gì đang xảy ra hôm nay - có lẽ cũng rất cần ôn lại một trong những vấn đề lớn nhất mà loài người có thể nghĩ tới: cuộc chiến tranh Việt Nam đã kết thúc cách đây gần 30 năm.

  • HOÀNG ĐĂNG KHOA Văn học Việt từ sau 1975, nhất là từ thời kỳ đổi mới, là một quá trình văn học rất phong phú, đa dạng và không ít phức tạp, lại còn đang tiếp diễn. Cuốn sách Văn học Việt Nam sau 1975 - Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy ra đời đáp ứng nhu cầu mang tính thời sự: nhu cầu nhìn nhận, đánh giá một cách khách quan, toàn diện về tiến trình văn học ba mươi năm qua, chuẩn bị cho sự ra đời của những công trình văn học sử và những chuyên khảo về giai đoạn văn học này.

  • NGUYỄN QUANG HÀTrong đời có những bài thơ người ta quên, mà chỉ nhớ một câu nằm lòng. Bởi đó là những câu thơ thực sự, những câu thơ thi sĩ. Từ xưa đến nay, đã có rất nhiều định nghĩa về thơ: Thơ là tiếng hát của trái tim; Thơ là hạt muối kết tinh của tình cảm; Thơ là phút giây rung động của tâm hồn... Nói chung, những định nghĩa ấy cho ta hiểu rằng ở đâu có được sự rung động của trái tim thì ở đó có thơ.