Một số phương thức hoà tấu nhạc cung đình Huế

15:38 31/07/2009
THÂN VĂN1. Phương thức liên kết về bài bản.Đặc điểm chung nhất của hệ thống bài bản hòa tấu nhạc cung đình thường là ngắn gọn, gắn liền và phù hợp với các ca chương trong mỗi nghi thức tế lễ. Những nghi thức này được tiến hành theo một trật tự trang trọng và nghiêm ngặt, nên mỗi bài bản ca chương và âm nhạc buộc phải trình tấu đúng với thời gian cho phép của từng nghi thức. Những bài bản này đương nhiên hoàn toàn độc lập về nội dung, nhưng do nằm trong một trật tự trình tấu nối tiếp liên tục, nên ngẫu nhiên đã hình thành các thể loại liên hoàn khúc khác nhau. Trong đó, độ dài, ngắn của mỗi liên hoàn khúc, tuỳ thuộc vào tính chất quan trọng của cuộc lễ, tuỳ thuộc vào số lượt nghi thức và số ca chương mà cuộc lễ quy định.

Hòa tấu nhạc cung đình - Ảnh: nguoicaotuoi.org.vn

Như vậy, trong số các cuộc tế lễ của triều đình nhà Nguyễn, thì lễ Tế Giao và lễ tế Miếu là 2 cuộc tế lễ long trọng nhất, bởi sự tham gia của dàn Đại nhạc, phối hợp cùng nhiều dàn nhạc khác trong cung đình, kèm theo các đội múa, hát, cùng phục trang, cờ, xí lộng lẫy, và tiến hành tới 9 nghi thức hành lễ trang trọng. Do vậy, số lượng ca chương và bài bản liên hoàn là lớn nhất. Theo thống kê của Nguyễn Đình Sáng (Sở Văn hoá - Thông tin Thừa Thiên-Huế) trong tài liệu Khảo sát lễ nhạc cung đình Huế thì có tới 24 bài bản âm nhạc, hiện đang được sử dụng trong các nghi thức Đại lễ (thuộc hệ thống Đại nhạc). Sau đó, có thể kể đến số lượng bài bản liên hoàn trong lễ Thiết Thường Triều mà Nguyễn Thụy Loan đã giới thiệu trong cuốn Lược sử âm nhạc Việt Nam - NXB AN.1993. Theo đó, dàn Tế nhạc (Ti Trúc Tế Nhạc) trình tấu liên hoàn 17 bài chính thức trong lễ Thiết Thường Triều, tổ chức 4 lần/tháng, tại Điện Cần Chánh (Đại Nội - Huế).

Phương thức liên hoàn khúc về bài bản còn được biểu hiện ở những nhóm bài bản tương đồng về nội dung, hoặc về tính chất âm nhạc và số lượng bài bản trong liên hoàn khúc tuỳ thuộc vào mức độ tương đồng của các bài bản đó. Trong hoà tấu nhạc cung đình Huế, kể cả trong hoà tấu thính phòng và Ca Huế, ta thường gặp các nhóm liên khúc sau: Tam luân cứu chuyển - Phát - Hiệp/ Cung bằng - Kèn Thoét/ Nam bằng - Nam trĩ... (trong Đại nhạc). Lưu thuỷ - Kim tiền - Xuân phong - Long hổ/ Xuân phong - Long hổ - Tẩu mã... (trong Tiểu nhạc)...

Nhưng có thể nói, trong tất cả các phương thức liên hoàn khúc về bài bản, thì hình thức liên hoà 10 bài Ngự (Thập thủ liên hoàn), gồm Phẩm tuyết, Nguyên tiêu, Hồ quảng, Liên hoàn, Bình bán, Tây mai, Kim tiền, Xuân phong, Long hổ, Tẩu mã, còn được dùng trong các ban nhạc thính phòng và ca Huế ngày nay là một thể thức liên hoàn có tính thống nhất và hoàn chỉnh cả về khúc thức, nội dung và hiệu quả trình tấu. Theo sử sách ghi lại thì 10 Bài Ngự kể trên do ban Ngự nhạc của triều đình biểu diễn phục vụ hoàng thân, quốc thích trong những dịp lễ quan trọng của Hoàng gia. 10 Bài Ngự còn có tên gọi khác là 10 Bản Tàu. Cũng theo sử sách mô tả, thì 10 bản nhạc này được triều đình Việt Nam hoàn chỉnh từ thời Lý - Trần, sau đó được nhà Nguyễn (Quang Trung Hoàng Đế) mang đi biểu diễn triều kiến (đi sứ) tại triều đình Mãn Thanh (Trung Hoa) nên có tên gọi là 10 Bản Tàu. Dù "tác phẩm" liên hoàn khúc này có tính thuần Việt, hay từng giao lưu, tiếp biến với âm nhạc Trung Hoa mà hình thành thì kỹ năng trình tấu của nó từng được các “quan nhạc” các nhạc công của dàn nhạc cung đình triều Nguyễn dày công biên soạn, trau chuốt, gọt dũa và hoàn thiện để nó trở thành một thể loại âm nhạc liên hoàn có tính nghệ thuật cao trong lĩnh vực hoà tấu nhạc cung đình Huế. Có thể xem xét giá trị thể loại của 10 Bài Ngự khi trình tấu theo thể thức liên hoàn, bởi những đặc điểm nghệ thuật sau:

- Về nội dung, nghi thức thì mỗi bài đều có nội dung riêng, ứng với mỗi nghi thức cuộc lễ, nhưng cho đến nay, ít khi những bài bản này được diễn tấu độc lập, mà nó chỉ có thể được người nghe cảm nhận một cách đầy đủ khi biểu diễn liên hoàn cả 10 bài. Điều đó chứng tỏ, các "quan nhạc" ngày trước đã có dụng ý xây dựng tính liên kết cho 10 bản nhạc này, trong quá trình biểu diễn lâu dài, "tác phẩm" liên hoàn khúc này được chỉnh lý bằng việc thêm bớt, hoặc thay thế một vài bài bản khác vào cơ cấu liên hoàn để "tác phẩm" ngày càng hoàn chỉnh hơn.

- Về thang âm, điệu thức thì cả 10 Bài Ngự đều tấu trên thang âm điệu Cung, nếu lấy bậc Hò (tương đương âm Do) làm chủ điệu, ta có thang âm, điệu thức của 10 Bài Ngự như sau: Hò - Xự - Y - Xê - Cống (tương đương với Do - Rê - Mi - Sol - La). Màu sắc điệu thức này nghiêng về hướng sáng, hơi Bắc, có tính chất trong sáng, vui tươi, rộn ràng.

- Về giai điệu thì yếu tố đóng vai trò quan trọng nhất cho sự liên hoàn của 10 bài Ngự là sự trùng lặp (nhắc lại) giai điệu của bài trước ở bài sau. Thí dụ: Nguyên tiêu và Phẩm tuyết có 14 ô nhịp giống nhau, Liên hoàn và Hồ quảng có 8 ô nhịp giống nhau, Bình bán và Liên hoàn có 7 ô nhịp giống nhau... Đặc điểm này như là một dụng ý (thủ pháp) của những người sáng tạo ra nó, làm cho tác phẩm 10 bài Ngự thống nhất chặt chẽ như một thể thức âm nhạc hoàn chỉnh.

- Về các kết của mỗi bài trong liên hoàn khúc 10 Bài Ngự không mang tính kết trọn, điều này thấy rõ trong tiến hành giai điệu về kết: hoặc tiến về kết ở bậc Hò không trọn vẹn (Phẩm tuyết, Bình bán, Xuân phong, Long hổ), hoặc tiến về kết ở các bậc khác ngoài bậc Hò (Nguyên tiêu, Hồ quảng, Liên hoàn, Tây mai, Kim tiền). Hiệu quả kết thúc trọn vẹn của liên hoàn khúc 10 Bài Ngự, chỉ xẩy ra ở bài nhạc cuối cùng (Tẩu mã).

- Về sắc thái, cường độ, tốc độ của liên hoàn khúc 10 Bài Ngự được trình tấu theo hướng tăng dần. Sắc thái từ vừa phải, trong sáng đến vui tươi, rộn ràng. Cường độ và tốc độ từ nhẹ nhàng, vừa phải đến mạnh dần, nhanh dần, với sự kết hợp chuyển đổi từ loại nhịp 4 phách (tương đương nhịp 4/4) ở 7 bài đầu sang loại nhịp 2 phách (tương đương nhịp 2/4) ở 3 bài sau, tạo cho liên hoàn khúc một trạng thái ổn định, thống nhất tuyệt đối cả về khúc thức và ý tưởng nghệ thuật.

Như vậy, ngay cả trong phương thức kết hợp này, thì nghệ thuật âm nhạc Đông - Tây lại một lần nữa gặp nhau trong ý tưởng sáng tạo. Liên hoàn khúc Con đường Mùa Đông của F. Schubert (1797-1828); Ngày hội hoá trang của R.Schumann (1810-1856); tiểu phẩm Những bức tranh trong phòng triển lãm của Musorxky (1839-1881); Giai điệu Bốn mùa của Tchaicopsky (1840-1893)... cũng từng được xây dựng từ tư duy liên kết bài bản trong một cấu trúc độc lập của từng bài bản và thống nhất bởi một thể thức mang tính nghệ thuật của thể loại liên hoàn khúc (Suite).

2. Phương thức ứng tấu trên lòng bản.

Phương thức này liên quan đến tính dị bản trong nền âm nhạc dân gian người Việt. Trước hết cần nhận thức được rằng: dị bản là đặc điểm vốn có, tự nhiên của các bài bản và làn điệu dân ca, dân nhạc nói riêng và các loại hình nghệ thuật dân gian Việt Nam nói chung, với phương thức chủ yếu là truyền miệng, truyền ngón, truyền nghề. Quá trình lưu truyền này luôn luôn được biến đổi tuỳ theo khả năng, trình độ, nhận thức và thẩm mỹ của từng tộc người, từng thời đại. Dị bản cũng đồng thời là một quá trình tự tồn, vì trước hết, nó tự lưu truyền mà không hề lệ thuộc vào những khuôn mẫu và bản ghi nhất định nào. Thử ghi lại một bài hát hoặc một bản đờn của một nghệ nhân, có khi chúng ta thu được vài bản ghi khác nhau (tất nhiên không khác nhau nhiều, vì nếu khác nhau quá đã không gọi là dị bản). Nếu cũng ghi bản đờn ca ấy từ vài ba nghệ nhân khác nữa, chắc chắn chúng ta sẽ còn gặp những điều thú vị ngạc nhiên. Đó là chưa kể các tầng, các lớp của các bài bản dân ca, dân nhạc được lưu truyền và dị bản từ hàng ngàn năm nay. Dường như tuỳ từng lúc, từng nơi, mỗi cảnh, mỗi tình mà bản đờn, câu hát của nghệ nhân mang những sắc điệu và cung cách ứng tác khác nhau.

Dị bản còn có nghĩa và đồng nghĩa với quá trình sáng tạo. Điều này khá nổi bật, chúng ta dễ dàng nhận thấy trong các thể loại hò, vè, ví, lý... Bằng phương thức thêm bớt từ, làm biến thái một vài trường độ, cao độ, đôi khi vài nét giai điệu. Đây cũng là cách để chưng khoe tài năng, trí tuệ của nghệ nhân dân gian. Đặc điểm này, chúng ta còn gặp trong các bản tấu đờn tài tử, các bản hoà tấu của các phường ngũ tuyệt, bát âm. Từ cái sườn chính mà người ta quen gọi là "lòng bản" (cứ gọi như phần cốt lõi) nghệ nhân trổ tài, trổ ngón tấu thành những "hơi", "giọng" khác nhau. Quá trình sáng tạo ra dị bản không chỉ dừng lại ở khả năng chủ quan của người nghệ sĩ dân gian, mà nó luôn luôn được tiếp thu, hoàn chỉnh từ đời này sang đời khác, để từ đó sinh ra các dị bản mới, đôi khi sinh ra bài bản mới, góp phần làm giàu thêm vườn hoa trăm sắc của nền dân ca, dân nhạc Việt Nam.

Như vậy, một bài bản âm nhạc được lưu truyền, bao hàm nhiều yếu tố biến thái (dị bản) khác nhau, nhưng nhìn chung, "lòng bản" là yếu tố cốt lõi, để một tác phẩm âm nhạc dân gian có thể tồn tại. Cũng do đặc điểm này mà nghệ thuật hoà tấu nhạc có điều kiện để phát huy khả năng ứng tác, ứng diễn một cách linh hoạt. Chúng ta cũng đã biết, nhạc công cung đình đa số là những tay đàn điệu nghệ, được chọn lọc, tuyển mộ trong nhân dân, họ luôn luôn có khả năng diễn tấu và ứng tác phi phàm. Việc ghi chép lại các bản tấu đàn của từng nhạc khí khác nhau trên cũng một bài bản, sẽ cho ra nhiều bản ghi khác nhau, đó là điều dễ hiểu. Hơn thế, hiệu quả đồng tấu từ trên các bản ghi khác nhau đó sẽ làm cho tác phẩm hoà tấu thêm phần phong phú, sinh động. Và đó cũng là một đặc điểm khá nổi bật trong lĩnh vực hoà tấu nhạc cung đình và dân gian Việt Nam. Với phương thức hoà tấu này, các nhạc công chỉ cần nắm vững các phách mạnh (chính yếu) của "lòng bản", để sau những chu kỳ nhịp điệu nhất định, các nhạc khí sẽ "trùng tấu" trên nền các nhạc khí họ Gõ dẫn dắt và giữ nhịp. Có thể nói rằng, yếu tố hoà điệu theo chiều ngang (Đa thanh chủ điệu - Homo phonicque) trong hoà tấu nhạc cung đình là vô cùng quan trọng. Với phương thức này, các nhạc khí họ Dây và họ Hơi có điều kiện để phát huy khả năng ứng diễn của mình. Phương thức này, trong một chừng mực nào đó, có thể so sánh với nghệ thuật Fantasia (phóng tác, ngẫu hứng) và Cadenza (tuỳ hứng, tự do) trong nghệ thuật hoà tấu nhạc của người Phương Tây.

3. Phương thức đồng tấu trên một bè.

Phương thức này liên quan trực tiếp đến đặc điểm của loại âm nhạc điệu thức của người Việt. Hầu như thẩm âm và tư duy âm nhạc truyền thống người Việt vốn đã quá quen thuộc với loại âm nhạc một bè, nên trong nhiều bài bản hoà tấu, phương thức đồng tấu gồm nhiều nhạc cụ trên một bè là rất phổ biến. Hiệu quả hoà âm của kiểu đồng tấu này chủ yếu là sự hoà hợp của các loại chất liệu chế tác nhạc cụ. Theo đó, tác phẩm hoà tấu đưa lại một cảm giác thuần khiết nhẹ nhàng, đôi khi cần thiết để tạo bầu không khí nồng nhiệt, rộn rã nhưng không gây kịch tính, căng thẳng.

Kiểu đồng tấu trên một bè thông thường có thể chuyển giao từng mỗi trường canh cho 1,2 hoặc vài nhạc cụ, có thể đơn tấu hoặc song, tam, tứ tấu, xen giữa các trường canh là dành cho toàn bộ dàn nhạc đồng tấu. Hiếm thấy lối tiến hành đan đuổi, đối vị nhiều bè độc lập (Đa thanh phức điệu - Poly phonicque) như kiểu canon, phức điệu trong hoà tấu nhạc của người phương Tây.

Khảo sát phương thức hoà tấu Đại nhạc và Tiểu nhạc do Nhà Hát Nghệ thuật Cung đình Huế và Ban Nhã nhạc - Trường Đại học Nghệ thuật Huế biểu diễn, thì hầu như các bài bản đều được dàn nhạc trình tấu theo lối đồng tấu một bè là chủ yếu. Và tất nhiên, trong phương thức này, vai trò của các nhạc khí Gõ lại càng trở nên quan trọng, nó nhấn mạnh những vị trí sắc thái cần thiết, làm nổi bật uy thế, tính chất oai nghiêm và trang trọng của các nhạc khí Gõ trong tổ chức dàn nhạc cung đình.

Tóm lại, nghệ thuật hoà tấu nhạc cung đình Huế tuy chưa có đầy đủ cơ sở để đánh giá một cách toàn diện cả về hình thức tổ chức và phương diện khoa học nghệ thuật, nhưng có thể nói rằng, bản chất của hoà tấu nhạc cung đình đã hàm chứa tính chuyên nghiệp đạt ở trình độ cao. Điều này biểu hiện ở ý thức xây dựng và hoàn thiện các tổ chức âm nhạc cung đình, các loại dàn nhạc, các bài bản và thể loại âm nhạc hoà tấu; cung cách, lề lối, nghi thức hoà tấu, đã phản ánh được sự hiểu biết và khả năng am tường của triều đình nhà Nguyễn về phép dùng nhạc, diễn nhạc và mục đích của âm nhạc trong đời sống cung đình và quốc dân. Đặc biệt là trong các nghi thức đại lễ mang tính quốc gia và quốc tế.

Tìm hiểu các vấn dề liên quan đến lĩnh vực hoà tấu nhạc cung đình, càng thấy rõ hơn, nghệ thuật âm nhạc cung đình Việt Nam mà đại biểu là cung đình triều Nguyễn, dù còn có những hạn chế nhất định về mặt lịch sử, vẫn có thể so sánh với mọi nền âm nhạc kinh điển của khu vực và thế giới, bởi sự hoàn bị về kỹ năng và quy mô tổ chức âm nhạc.

Cũng qua việc tìm hiểu các vấn đề liên quan đến lĩnh vực hoà tấu nhạc cung đình Huế, ta càng thấy rõ hơn, nghệ thuật hoà tấu nhạc cung đình triều Nguyễn vẫn còn là những bí quyết, còn cần nhiều thời gian nghiên cứu và đúc kết từng bước lâu dài.

T.V
(181/03-04)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • Hưởng ứng cuộc vận động sáng tác Văn học Nghệ thuật hướng về thiên tai với chủ đề “Nguyện cầu cho nạn nhân động đất tại Nhật Bản” do Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế tổ chức.

  • VIỆT ĐỨCCâu trả lời đầu tiên vẫn thuộc về môi trường sinh hoạt âm nhạc. Hiện nay ở thành phố Hồ Chí Minh mỗi đêm có đến 50 tụ điểm ca nhạc hoạt động với cơn sốt ca sỹ leo thang đến chóng mặt.

  • Dương Bích HàCũng như các loại hình nghệ thuật khác, nền âm nhạc cổ truyền luôn tồn tại hai dòng: âm nhạc bác học và âm nhạc dân gian.Ở Huế, trên một thế kỷ là kinh đô của triều đại phong kiến Việt Nam, nên đặc biệt, tính chất này được bộc lộ rất rõ và triệt để, là nơi phân chia rạch ròi nhất các giai tầng trong xã hội, trong văn hóa nghệ thuật.

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂNNgày xưa, xã hội Việt Nam thực hiện nguyên tắc “phụ truyền tử kế” (cha truyền con nối), cho nên ông nội tôi - cụ Nguyễn Đắc Tiếu (sinh 1879), người làng Dã Lê chánh, xã Thủy Vân, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên, lúc mới lên mười tuổi, đã được cố tôi (lính trong đội Nhã nhạc Nam triều) đem vào Đại nội học Nhạc cung đình (Musique de Cour).

  • PHAN THUẬN THẢONhã nhạc là loại hình âm nhạc chính thống được sử dụng trong các cuộc tế, lễ của các triều đình quân chủ ở Việt Nam và một số nước khu vực Đông Á. Trong các cuộc triều hội, cúng tế, âm nhạc luôn theo suốt quy trình của buổi lễ, từ lúc mở đầu cho đến hồi kết thúc. Nó tham gia vào từng tiết lễ, là một thành tố không thể thiếu của cuộc lễ, đồng thời, là phương tiện giúp con người giao tiếp với thế giới thần linh. Loại hình âm nhạc này được các triều đại quân chủ hết sức coi trọng, được phát triển thành một thứ quốc nhạc và là một trong những biểu tượng cho sức mạnh của vương quyền và sự vững bền của triều đại.

  • YAMAGUTI OSAMUTháng Giêng năm 1994, trong lúc đang còn ngất ngây hương vị Tết, thì đột nhiên điện thoại và fax từ Paris đến tới tấp. Đó là vì UNESCO đã nhận lời yêu cầu của chính phủ Việt Nam để mở một Hội nghị Quốc tế thảo luận về vấn đề nên làm gì và cái gì có thể làm được để bảo tồn và phát huy tài sản văn hoá vô hình của Việt Nam, vì vậy họ muốn mời tôi tham gia hội nghị và đưa ra đề nghị cụ thể. Ông Tokumaru Yosihiko (giáo sư của Đại học Nữ Ochanomizu, lúc đó còn là Trưởng khoa của Khoa Văn hoá- Giáo dục) cũng nhận được lời mời như vậy, nên tôi đã liên lạc với ông và cả hai quyết định nhận lời mời này.

  • VIỆT HÙNGCuộc toạ đàm với chủ đề Sự cần thiết phải thành lập nhạc viện ở Huế vừa diễn ra vào ngày 10/3/2004. Đây là một trong những hoạt động nằm trong khuôn khổ của Trại sáng tác khí nhạc dân tộc và phê bình lý luận âm nhạc, do Chi hội Nhạc sĩ Việt Nam Thừa Thiên Huế phối hợp với Trường Đại học Nghệ thuật Huế tổ chức từ 9/3 đến 17/3/2004.

  • THÂN VĂNSau hơn 2 tháng phát động và 9 ngày chính thức dự trại (từ ngày 09 đến 17/3/2004), với 14 tác phẩm khí nhạc dân tộc và 5 tác phẩm lý luận phê bình âm nhạc của 17 nhạc sĩ có mặt tham dự trại. Lễ bế mạc chiều ngày 17/3/2004 Trại sáng tác khí nhạc dân tộc & lý luận phê bình âm nhạc tại Huế đã gây được ấn tượng tốt đẹp và những tín hiệu đáng mừng trong lòng nhân dân Cố Đô. Điều đáng nói là các nhạc sĩ của Hà Nội, Huế và TP.Hồ Chí Minh đã gặp nhau từ một ý tưởng sáng tạo chủ đạo là nhằm tôn vinh và phát huy các giá trị của di sản văn hoá phi vật thể và truyền khẩu ở Huế, góp phần định hướng cho mô hình và mục tiêu đào tạo của Nhạc viện Huế trong tương lai.

  • TRẦN VĂN KHÊNhạc Cung đình là một bộ môn nhạc truyền thống Việt Nam dùng trong Cung đình. Nhưng người sáng tạo và biểu diễn Nhạc Cung đình hầu hết là những nhạc sĩ, nghệ sĩ từ trong dân gian, có tay nghề cao, được sung vào Cung để phụng sự cho Triều đình. Nhạc Cung đình Huế là một bộ môn âm nhạc truyền thống Việt Nam rất đặc biệt và có một giá trị lịch sử, nghệ thuật rất cao.

  • THÁI CÔNG NGUYÊNMột nhà văn nước ngoài khi đến thăm Huế đã nói: “Huế là một bảo tàng kỳ lạ chứa đựng trong lòng mình những kho tàng vô giá, những giá trị văn hóa vật chất và tinh thần Việt Nam”. Đúng vậy, bên cạnh kho tàng di sản văn hóa kiến trúc đồ sộ có giá trị tầm vóc quốc tế, Huế còn là một tụ điểm di sản văn hóa tinh thần phong phú, một vùng văn hóa Phú Xuân đặc sắc “Huế đẹp và thơ” nổi tiếng.

  • PHÙNG PHUNgày 07 tháng 11 năm 2003, ông Koichiro Matsuura, Tổng Giám đốc UNESCO đã chính thức công bố trong một buổi lễ long trọng nhân kỳ họp toàn thể lần thứ 32 của Ðại hội đồng UNESCO tại Paris: UNESCO đã ghi tên 28 Kiệt tác vào Danh mục Kiệt tác Di sản Văn hóa Phi vật thể và Truyền khẩu của Nhân loại.

  • LTS: Đại hội khoá II (nhiệm kỳ 2003 - 2008) của Chi hội Nhạc sỹ Việt Nam Thừa Thiên Huế vừa diễn ra vào trung tuần tháng 9. Nhạc sỹ Hồng Đăng, Phó Tổng thư ký Hội Nhạc sỹ Việt Nam, thay mặt cho BCH Hội Nhạc sỹ Việt Nam vào tham gia chỉ đạo Đại hội. Tại Đại hội, nhiều tham luận, ý kiến phát biểu của các nhạc sỹ đã thể hiện được sự trăn trở về thực trạng và hướng phát triển của nghệ thuật âm nhạc đương đại Huế. Sông Hương xin trích đăng một số ý kiến đã trình bày tại đại hội.

  • LÂM TÔ LỘCĐại tá - nhạc sĩ Đức Tùng, sinh năm 1926 tại Huế đẹp và thơ, đã mãi mãi xa quê: Ông mất ngày 25/01/2003. Ông viết ca khúc từ trước Cách mạng tháng Tám như Kỷ niệm ngày hè, Bên trời xa, Dòng Dịch thủy, Dưới ánh trăng mơ. Ông đã từng biểu diễn ca nhạc tại nhà hát Accueil, là cây Accordéon cầm chịch của ban nhạc gia đình ở phố Hàng Bè.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ Năm nay (2003), nhạc sĩ Trần Hữu Pháp (NSTHP) “mới” tròn 70 tuổi, nhưng dễ đã mấy chục năm, sau khi nhạc sĩ Trần Hoàn rời Cố đô ra Hà Nội nhận các trọng trách, NSTHP nghiễm nhiên ngồi “chiếu trên”, là “già làng” của giới âm nhạc Thừa Thiên Huế. Kể cũng phải; từ bốn mươi năm trước, khi hàng triệu thiếu nhi miền Bắc đội mũ rơm dắt lá nguỵ trang đến trường, miệng líu lo ca bài hát ông vừa sáng tác “Tiếp đạn nào / Tiếp đạn chuyền tay trên chiến hào / Cho chú dân quân bắn nhào phản lực...” thì không ít các nhạc sĩ nổi danh bây giờ có lẽ còn... bú mẹ! Vậy mà trước mắt tôi (và chắc là với không ít người nữa) - nói ông anh đừng giận nhé - vị nhạc sĩ lão làng này lại rất...trẻ con!

  • NGUYỄN TRỌNG TẠO...Người ta thường nhắc tới Thái Quý như nhắc tới một con người giàu tình cảm, dễ khóc, dễ cười, dễ nóng giận và cũng rất vị tha. Nói đến khuyết điểm của mình trong cuộc họp, anh khóc đã đành, nhưng khi chỉ trích khuyết điểm của đồng đội, anh cũng khóc...

  • NGUYỄN THANH TÚNăm ngoái, tôi tình cờ gặp nhạc sĩ Thái Quý khi ông đang bận rộn chỉ đạo "đoàn thành phố Huế" trước giờ ra sân khấu tham gia hội diễn ca múa nhạc công - nông - binh - trí thức do tỉnh Thừa Thiên Huế tổ chức tại nhà hát Trung tâm Văn hoá.

  • VĨNH PHÚCNếu kinh đô Thăng Long xưa từ trong cung phủ đã có một lối hát cửa quyền phát tán thành một dòng dân gian chuyên nghiệp là hát Ả đào và vẫn thịnh đạt dưới thời vua Lê chúa Trịnh, thì kinh đô Phú Xuân sau này, hoặc là đã từ trong dinh phủ của các chúa Nguyễn ở Đàng Trong phát tán thành một lối gọi là Ca Huế (gồm cả ca và đàn). Vậy cũng có thể gọi Ca Huế là một lối hát Ả đào của người Huế, một lối chơi của các ông hoàng bà chúa xét trên quan điểm tiếp biến trong tiến trình của một lối hát truyền thống và tiến trình lịch sử từ Thăng Long đến Phú Xuân-Huế.

  • VĂN THU BÍCHTừ bao đời nay, tình yêu Huế vẫn mãi chìm sâu trong lòng những người con xứ Huế, dù đang sống trên đất Huế hoặc đã biền biệt xa xứ và Huế mộng mơ cũng len nhẹ vào hồn du khách khi đến thăm vùng đất thần kinh này.

  • TRẦN NGỌC LINHBạn còn thương bạn biết gửi sầu về nơi mô?Trước khi tôi vào Huế, chị tôi dặn: “Vào muốn gặp bà Minh Mẫn cứ đến đường Nhật Lệ mà hỏi”. Theo cách nhớ đường của một người viễn khách từ xa đến thì đến phố đó cứ thấy đầu ngõ nào có một giàn hoa tử đằng với những dây hoa buông thõng chấm xuống nền đất vỉa hè thì đó chính là lối rẽ vào ngõ nhà danh ca Minh Mẫn.

  • TRẦN KIÊM ĐOÀNGọi tên hoa súng: LỤC HÀGọi thôn LIỄU HẠ: quê nhà bên sôngGọi TRẦN KIÊM: họ sắc... khôngGọi HÀ THANH: tiếng hát dòng Hương Giang