Tôi là một trong những người có may mắn và cơ duyên từng được trực tiếp giới thiệu cho Đại tướng xem phần trưng bày “Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước ở Thừa Thiên-Huế 1954 - 1975” cũng như nhận được những lời góp ý giá trị cách đây 18 năm – tháng 5/1995.
Vào dịp kỷ niệm 20 năm giải phóng Thừa Thiên-Huế, Tỉnh ủy, UBND tỉnh quyết định giao cho ngành Văn hóa Thông tin nghiên cứu xây dựng đề cương, kịch bản và tổ chức thi công trưng bày giai đoạn 1954 - 1975, nhằm giới thiệu và giáo dục truyền thống đấu tranh cách mạng cho mọi tầng lớp nhân dân trong tỉnh, phục vụ khách du lịch trong nước và nước ngoài về một giai đoạn lịch sử của Đảng bộ và nhân dân Thừa Thiên-Huế, đã cùng với nhân dân hai miền Nam, Bắc viết nên những trang sử vàng chói lọi trong lịch văn hiến của dân tộc Việt Nam.
Phần trưng bày được đông đảo nhân dân, cán bộ các ban, ngành, các nhà khoa học lịch sử, quân sự, văn hóa cùng lãnh đạo trong tỉnh, tỉnh bạn và lãnh đạo các ban ngành ở Trung ương khi đến thăm và làm việc tại Thừa Thiên-Huế, trong đó có Đại tướng Võ Nguyên Giáp.
Tháng 5/1995, Bảo tàng Tổng hợp được vinh dự đón Đại tướng Võ Nguyên Giáp đến tham quan. Ông đi xem hết bốn phòng trưng bày, trong đó, ông xem, nghe và hỏi rất kỹ về lai lịch khẩu sơn pháo 75 li và hai sự kiện: “Chiến dịch Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968” và “Chiến dịch giải phóng Thừa Thiên-Huế mùa xuân 1975” được thể hiện qua sưu tập hiện vật trưng bày, trong đó có hai sa bàn, hai bộ phim tư liệu về hai chiến dịch này.
Về khẩu sơn pháo 75 li, tôi giới thiệu: Đây là khẩu sơn pháo của một trung đoàn sơn pháo 75 sử dụng trong các đợt tấn công của chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ. Sau đó, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, khẩu sơn pháo 75 này cùng với nhiều khẩu khác được đưa vào các chiến trường miền Nam theo con đường Hồ Chí Minh, và được để lại trên tuyến đường Hồ Chí Minh qua địa phận Bình Trị Thiên. Một thời gian sau, có lẽ do không còn sử dụng được nên “tạm cất giữ” ở một nơi thuộc huyện Nghĩa Đàn, tỉnh Nghệ An. Nhân kỷ niệm 25 năm, ngày thành lập đường Hồ Chí Minh (19/5/1959 - 19/5/1984), Bộ Quốc phòng giao nhiệm vụ cho Tổng cục Hậu cần tổ chức triển lãm về đường Hồ Chí Minh tại Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, và đến tháng 5/1985 đưa triển lãm đường Hồ Chí Minh ra Huế trong thời gian trên 2 tháng.
Những thông tin về khẩu sơn pháo 75 trên là do Đại tá Lê Trọng Tâm kể lại, ông nguyên là một trong những trợ lý đầu tiên cho “Phòng nghiên cứu chi viện quân sự miền Nam”, gọi tắt là “Phòng nghiên cứu”, được Tổng Quân ủy quyết định thành lập ngày 5/5/1959, lúc đó đồng chí Tâm được giao làm nhiệm vụ thư ký. Năm 1984, đồng chí được giao nhiệm vụ chỉ đạo nội dung triển lãm đường Hồ Chí Minh toàn quốc, và là người trực tiếp đi sưu tầm, vận chuyển khẩu sơn pháo này từ huyện Nghĩa Đàn (Nghệ An) ra Hà Nội. Sau khi kết thúc triển lãm đường Hồ Chí Minh tại Huế, khẩu sơn pháo 75 cùng với sưu tập hiện vật, tài liệu về đường Hồ Chí Minh được Tổng cục hậu cần, Quân khu 4 bàn giao cho Bảo tàng Bình Trị Thiên bảo quản. Đến năm 1990, theo chủ trương của Bộ Quốc Phòng, toàn bộ hiện vật này được bàn giao cho Bảo tàng tỉnh Quảng Trị, Bảo tàng Thừa Thiên Huế chỉ xin giữ lại hiện vật - khẩu sơn pháo 75.
Nghe xong, Đại tướng nhắc nhở phải bảo quản và gìn giữ cho tốt hiện vật nay.
Sau đó, Đại tướng có góp ý một số ý kiến bổ ích, chúng tôi không nhớ hết được chi tiết, chỉ nhớ đại ý như sau: về cơ bản nội dung trưng bày là tốt, đã phản ánh được những nét chính về những mốc sự kiện cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước ở Thừa Thiên Huế. Nên chú trọng đầu tư hơn nữa cho công tác sưu tầm hiện vật, từng bước chỉnh lý bổ sung cho hoàn chỉnh và phong phú thêm nội dung, (tôi còn nhớ Đại tướng có hỏi: nói như thế có đúng không?).
Về hai sa bàn, Đại tướng cho là tạm thời chưa tương xứng với hai sự kiện này, ông nói nhỏ quá nên không thể hiện được nội dung, nên ra học tập các sa bàn ở Bảo tàng Quân đội ở Hà Nội, (nay là Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam).
Sau khi nghe bảo tàng báo cáo, giới thiệu thêm, Đại tướng có nói một ý rất quan trọng, là nên phối hợp đồng bộ, nhịp nhàng giữa phim tư liệu với âm thanh, ánh sáng, các hình thức thể hiện diễn biến chiến dịch trên hai sa bàn, nhất là phải thể hiện được địa điểm Sở chỉ huy chiến dịch.
Quả thật, hồi đó nghe vậy, biết vậy, vì còn nhiều vấn đề liên quan ràng buộc, không phải muốn là được, nên chưa hiểu hết ý nghĩa, giá trị lời nói đó của Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Chín năm sau, nhân Kỷ niệm 50 năm chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ (7/5/1954 – 7/5/2004), tôi tham gia sưu tầm tư liệu biên soạn thư mục về “Chiến dịch lịch sử Điên Biên Phủ” đọc được bài viết về lần Đại tướng Võ Nguyên Giáp dẫn Chủ tịch Phiđen Caxtơrô (Cu Ba) đến xem sa bàn Điện Biên Phủ ở Bảo tàng Quân đội, khi xem xong, ông hỏi Đại tướng Võ Nguyên Giáp, thế Sở chỉ huy chiến dịch ở đâu không thể hiện trên sa bàn? Sau đó Bảo tàng Quân đội mới bắt đầu đi tìm Sở chỉ huy chiến dịch Điện Biên Phủ ở Mường Phăng hiện nay.
Không chỉ xem phần trưng bày “Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954 – 1975), Đại tướng Võ Nguyên Giáp còn xem rất kỹ phần trưng bày các hiện vật về Văn hóa Sa Huỳnh do Bảo tàng tỉnh phối hợp với Viện Khảo cổ Việt Nam khai quật tại di tích Cồn Ràng, Hương Chữ, Hương Trà.
18 năm sau, khi vị Đại tướng kính yêu của chúng ta đã đi xa, những bức ảnh chụp kỷ niệm với Đại tướng hồi đó, tôi vẫn giữ xem là những kỷ vật quý giá của cuộc đời mình. Suy ngẫm lại mới thấm thía lời góp ý của Đại tướng Võ Nguyên Giáp cho hai sa bàn ở Bảo tàng Tổng hợp Thừa Thiên Huế quá sâu sắc, và có lẽ những người đang làm việc ở Bảo tàng Thừa thiên Huế hiện nay cũng nên ghi nhớ để nghiên cứu xây dựng đề cương, kịch bản xây dựng hai sa bàn – hai sự kiện lịch sử lớn trong những sự kiện lịch sử quan trọng của quân và dân Thừa Thiên-Huế trong hai cuộc kháng chiến khi xây dựng Bảo tàng Tổng hợp quy mô, hiện đại trong tương lai gần.
Theo Xuân Phượng (TT-Huế)
Trong khuôn viên lăng vua Minh Mạng ở Huế có một di tích độc đáo nhưng ít người biết đến, đó là Tả tùng phòng trên núi Tịnh Sơn. Điểm đặc biệt của công trình này là cánh cửa vòm cuốn đã bị một cây si cổ thụ "nuốt chửng". Đây là minh chứng cho sức mạnh tàn phá của thiên nhiên và thời gian đối với các công trình do con người xây dựng.
Một bà Hoàng con đại gia, vợ ông vua Nguyễn nổi tiếng, nhan sắc Việt
Người Huế vốn là người xứ kinh kỳ, nên lời ăn tiếng nói, cung cách ứng xử, đi lại cũng nhẹ nhàng, tri thức. Ẩm thực cung đình Huế cũng mang nhiều nét ảnh hưởng của cung cách hoàng gia: Ăn uống nhẹ nhàng, khoan thai, các món ăn ngoài khẩu vị ngon phải nhẹ và thanh, cách trình bày cũng phải đẹp, bắt mắt.
Ba giờ sáng, tại Đàn Nam Giao (Thừa Thiên Huế), không còn nghe tiếng hô đức vua xa giá, chỉ có âm thanh rì rầm dội vào rừng thông và những ánh mắt hướng về linh vị đặt trên bàn thờ. Những người dân đến Đàn Nam Giao để nguyện xin sự viên mãn, gia đình bình an.
Kinh thành ở cố đô Huế vốn là vùng đất thấp trũng. Người xưa đã làm những gì để chống ngập cũng là một bài học đáng tham khảo cho chúng ta hôm nay.
Trấn Hải thành là công trình đã chứng kiến trang sử bi thương của Huế trong công cuộc chống giặc ngoại xâm cuối thế kỷ 19.
Vào cung là đến với cuộc sống giàu sang nhung lụa nhưng với phần lớn cung nữ, Tử Cấm thành lại là nơi chôn vùi tuổi xuân của họ.
Nhà rường Huế đã trở thành một di sản vô cùng quý báu của kiến trúc cổ Việt Nam. Tiếp nối kiểu nhà rường của người Việt tại quê cũ Hoan-Ái, cư dân Thuận Hóa với năng khiếu thẩm mỹ sáng tạo, đức tính cần cù và bàn tay khéo léo đã tạo cho nhà rường xứ Huế một bản sắc độc đáo.
Nhà rường Huế đã trở thành một di sản vô cùng quý báu của kiến trúc cổ Việt Nam. Tiếp nối kiểu nhà rường của người Việt tại quê cũ Hoan-Ái, cư dân Thuận Hóa với năng khiếu thẩm mỹ sáng tạo, đức tính cần cù và bàn tay khéo léo đã tạo cho nhà rường xứ Huế một bản sắc độc đáo.
Theo sử sách chép lại, không chỉ có triều vua Trần quy định việc anh - em - cô - cháu trong họ lấy nhau với mục đích không để họ ngoài lọt vào nhằm nhăm nhe ngôi báu, mà thời nhà Nguyễn – triều đại cuối cùng của chế độ phong kiến Việt Nam cũng xảy ra hiện tượng này.
Gần 150 năm giữ vai trò là kinh đô của cả nước, triều Nguyễn được nhận định là một triều đại quân chủ đặc biệt nhất trong tất cả các triều đại quân chủ ở nước ta. Riêng số lượng sách vở được biên soạn dưới triều này cũng nhiều hơn toàn bộ di sản của các triều đại khác cộng lại.
Từ Dụ Thái Hậu nổi tiếng là một bà hoàng yêu nước thương dân. Tiếc rằng lăng mộ của bà đã bị thời gian và con người hủy hoại...
Du lịch Huế, ngoài thăm quan những địa điểm nổi tiếng như Đại Nội, Chùa Thiên Mụ, hệ thống lăng tẩm của các vua chúa triều Nguyễn,... thì Huế còn sở hữu nhiều điểm đến thú vị mà bạn chưa khám phá hết.
Ở Việt
“Toàn bộ cuốn sách làm bằng bạc mạ vàng, chỉ có 5 tờ (10 trang) nhưng nặng tới 7 ký, xuất hiện vào thời vua Thiệu Trị (1846), có kích cỡ 14×23 cm..."
Gắn liền với một giai thoại từ thời mở làng, trải qua hàng trăm năm, người dân xã Hương Thọ, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên - Huế truyền tai nhau những câu chuyện huyền bí về một hòn “đá lạ” ở điện Mẹ Nằm.
Với quyền lực cùng sự tàn nhẫn vô hạn, Ngô Đình Cẩn được mệnh danh là "Bạo chúa miền Trung" trong suốt thời gian Ngô Đình Diệm nắm quyền.
Lăng mộ của chúa Nguyễn Phúc Tần còn được gọi là lăng Chín Chậu, có nhiều nét độc đáo so với lăng mộ các chúa Nguyễn khác.
BAVH - là các chữ viết tắt của bộ tập san bằng tiếng Pháp với nhan đề: “Bulletin des Amis du Vieux Hué” (Tập san của những người bạn Cố đô Huế”. Trước đây tập san này có tên gọi là “Đô thành Hiếu cổ”. Bộ tập san này (sau này người ta gọi là tạp chí) được xuất bản và lưu hành tại Việt
Theo truyền thuyết, ngày xửa ngày xưa, có một vị thần gánh đất để ngăn sông đắp núi. Một hôm vị thần đó đang gánh đất thì bỗng nhiên đòn gánh bị gãy làm hai, nên bây giờ đã để lại hai quả đất khổng lồ khoảng cách nhau hơn một km đó chính là núi Linh thái và núi Túy Vân ngày nay thuộc xã Vinh Hiền, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên – Huế.