Một hộp đào

08:23 25/06/2010
EDWARD D. HOCHGần như ngay từ ngày cưới của họ cách đây 17 năm, William Willis đã căm ghét vợ mình, nhưng chưa một lần nào anh ta nghĩ đến chuyện giết người. Anh ta sẵn lòng ở ngoài suốt cả ngày, lái xe tới cơ quan mỗi sáng, quay trở về nhà mỗi tối, và đơn giản là bỏ ngoài tai cái giọng lải nhải đều đều của vợ.

Nhà văn Edward D. Hoch - Ảnh: internet

Ở cuối độ tuổi 30, Constance Willis gần như đánh mất tất cả vẻ đẹp thời thanh xuân đã thu hút Willis ngay lần đầu gặp cô tại trường trung học. Cả thân hình lẫn trí óc của cô đều mềm nhão ra. Cô chẳng hề bận tâm đến việc đọc một quyển tạp chí hay nhấc một cuốn sách lên, mà dành cả ngày cho những việc vô bổ như dạo chơi, sắm sửa với các bạn gái, chơi bài Brit ở Câu lạc bộ cuối tuần và chuyện phiếm hàng giờ trên điện thoại. Nhưng dù với tất cả sự căm ghét của mình, William Willis chưa từng nghĩ đến chuyện giết người. Thực tế, anh ta thậm chí không hề nghĩ đến việc li dị cho tới khi gặp Rita Morgan, sống ở căn hộ tầng dưới.

Willis và vợ không có con, vì vậy họ vui vẻ ở lại căn hộ thoải mái gần đường cao tốc, thuận tiện cho Willis đi làm, và môi trường xung quanh cũng tạo cảm giác tiện nghi cho ngôi nhà. Căn hộ là một trong số ít những điểm trong cuộc hôn nhân của họ mà cả William và Constance cùng đồng ý.

Khi Rita Morgan chuyển đến căn hộ tầng dưới, buổi tối và những kì nghỉ cuối tuần của Willis ngay lập tức trở nên vui vẻ. Rita là một giáo viên trung học, 25 tuổi với mái tóc hung dài và một vẻ đẹp lặng lẽ nổi bật giữa những học sinh của cô. Willis giúp cô chuyển đồ, mang vài hộp các tông sách, và ngay lập tức họ thành bạn bè. Cô có tất cả những thứ mà anh đã thấy ở Constance 17 năm trước, nhưng, quan trọng hơn, cô thông minh và dí dỏm:

 - Anh lại ở chỗ Rita đấy à? Constance hỏi vào tối thứ sáu.

- Một vòi nước của cô ấy bị rò - anh ta giải thích - nó chỉ cần một cái vòng đệm mới thôi.

- Những vấn đề đó đã có người quản lí giải quyết mà.

Anh ta thở dài và mở cho mình một chai bia: - Em biết là cô ấy phải đợi cả tháng trước khi ông ta quay lại kiểm tra mà.

Constance càu nhàu, nhưng anh ta biết cô không vui về sự quan tâm của anh ta với Morgan. Cô ấy không cần lo lắng quá thế, vì Rita là một phụ nữ trẻ đứng đắn - ít ra cũng tới mức Willis đã quan tâm - người đã tiếp đón anh ta chỉ với sự thân thiện như một người láng giềng tốt tính.

Tuy nhiên, lần đầu tiên ý nghĩ về sự hiện diện của Rita đã xuất hiện trong đầu Willis khi anh ta đọc được trên báo buổi chiều về vụ ngộ độc thức ăn. Một cậu bé 12 tuổi đã chết vì ngộ độc khi ăn đào đóng hộp chưa được khử trùng sạch. Theo nguyên tắc, những quả đào bị độc có vẻ rất khác thường, nhưng những quả này lại được xử lí một cách đặc biệt, làm cho chúng nhạy cảm hơn với những bào tử bị tổn hại nghiêm trọng.

Khi suy nghĩ về sự huỷ diệt bị che đậy đó đã giết chết cậu bé, anh ta không thể không suy đoán về một cái chết tương tự xảy đến với Constance . Tối đó, khi lái xe về nhà, những mơ mộng gần đây về việc li dị và cưới Rita đã chuyển hướng. Giờ đây, anh ta hình dung ra Constance chết, kiểu như bị tai nạn ô tô hay ngộ độc thức ăn.

Constance không để ý đến tin tức về việc ngộ độc thức ăn, và điều đó đã lướt qua đầu Willis. Cô chỉ quan tâm rất ít đến những sự kiện mà anh ta vẫn thường bình luận, hay vài bộ mặt mới trên vũ đài chính trị. Từ ngày rời trường để cưới Willis, hầu như cô đã không còn hứng thú với những sự kiện và những con người ngoài đám bạn của cô.

Sự quan tâm của một thư kí đã làm Willis nhớ đến những quả đào đóng hộp. Báo buổi chiều đã có thông tin chi tiết hơn, một lô hàng đã được nhà máy đóng hộp thu hồi. Lô 721/XY258, loại “Can O’gold Fancy Prepared Peaches”.

Những mơ mộng lại quay trở lại. Anh ta biết Constance ăn đào đóng hộp suốt mùa hè, thường để tráng miệng và anh ta biết thỉnh thoảng cô có mua loại Can O’gold.

Anh ta đọc báo chiều hôm đó, biết thêm chi tiết về cái chết của cậu bé, về hậu quả chết người của việc bị ngộ độc, rồi tiếp tục mơ mộng. Theo báo buổi tối, tất cả các hộp Can O’gold đều được thu hồi, và người tiêu dùng được khuyên tránh sử dụng lô 721/XY258.

Trở về nhà tối hôm đó, khi Constance chuyện phiếm qua điện thoại, William Willis đưa mắt lên giá đựng chén bát. Có hai hộp đào và một hộp là Can O’gold. Tim anh ta đập loạn lên khi xem số lô trên nhãn. Lô 721/XY258. Xem kĩ hơn, anh ta để ý thấy cái hộp phồng ra một chút. Gần như đã có dấu hiệu của việc sản sinh hơi độc do hoạt động của các vi khuẩn bên trong.

Ở đây, trên giá đựng chén bát, là một trong những hộp đào chết người.

Willis không nói gì với Constance , nhưng tối đó nằm trên giường, những khả năng lướt qua óc anh ta. Tất cả những gì anh ta phải làm là không nói gì cả, và sớm hay muộn thì Constance cũng sẽ ăn những quả đào bị độc và chết vì ngộ độc. Mọi người sẽ cảm thông sâu sắc. Sẽ chẳng ai nghi ngờ điều gì.

William Willis sẽ là một người đàn ông tự do.

Anh ta xoay người nhìn chằm chằm vào bóng tối, nghĩ tới Rita Morgan đang ở tầng dưới.

Buổi sáng đi làm, anh thấy Rita đang lau xe. “Xin chào - anh ta gọi - Tôi không nghĩ là các giáo viên lại dạy sớm thế này”.

- Tôi sắp đi pic-nic - cô trả lời, mỉm cười - Việc đầu tiên phải làm là cố gắng tống những thứ bẩn đi.

- Nếu không phải đi làm tôi sẽ giúp cô. - Anh ta trò truyện một lúc nữa, cho tới khi để ý thấy Constance đang nhìn họ ở cửa sổ tầng trên. - Đến giờ đi rồi. - anh ta kết thúc - Hẹn gặp lại cô.

Ngày hôm đó tại cơ quan, anh ta cố không nghĩ về nó. Nhưng sau bữa trưa, khi đọc bài báo mới nhất thông tin chi tiết về việc thu hồi những hộp đào, ý nghĩ về việc giết người thoáng qua óc anh.

Nếu Constance chết vì ăn những quả đào đó, không phải anh ta là kẻ giết người sao?

Không, không đúng. Anh ta phủ nhận. Anh ta chưa hề động đến cái hộp. Constance đã chọn nó. Constance sẽ ăn nó vào bất kì lúc nào trong ngày khi anh ta vắng mặt. Làm sao lại có thể là lỗi của anh ta.

Một tai nạn. Hoặc chết do bất cẩn, như cách nói ưa thích của người Anh. Nhưng chắc chắn không phải một vụ sát hại. William Willis trở lại làm việc và cố không nghĩ đến hộp đào đang nằm đợi Constance trên giá.

Khi trở về nhà tối hôm đó, điều anh ta nhận thấy đầu tiên là Constance đang ngồi ở bàn ăn đào và kem.

- Nó không làm hỏng buổi tối của em đấy chứ, em yêu? - Anh ta hỏi với chút kiểu cách.

- Trời nóng quá nên em không nấu bữa tối. Em nghĩ chúng ta phải ra ngoài kiếm vài cái sandwich thôi. Được chứ anh?

Vào một tối khác, Willis đã càu nhàu, nhưng tối nay, anh ta chỉ nói đơn giản, “Chắc chắn rồi”, và theo cô tới tủ bát đĩa. Cô đã ăn một loại khác.

Tối đó họ nói chuyện rất ít và lần đầu tiên sau nhiều năm, Willis nhận thấy mình đã ở cùng Constance trong nhiều giờ mà không hề cảm thấy sự hận thù cũ. Khi họ ăn tối về, Rita lên vay ít sữa và Constance đã tiếp cô với thái độ thân thiện, thậm chí còn mời cô uống cà phê. Tối đó, Willis đi ngủ với cảm giác thoải mái. Cho tới hôm sau ở cơ quan, cảm giác đó vẫn còn và anh ta tự hỏi phải chăng anh ta đã bị cuốn theo sự vui vẻ của Constance . Anh ta mua báo NewYork và Chicago , câu chuyện về vụ ngộ độc vẫn còn được đăng tải. Một tờ đưa ra chi tiết về cái chết đau đớn của cậu bé, não bộ bị huỷ hoại một cách từ từ cho đến khi cậu tắt thở. Willis đọc, run môi kinh sợ, hình dung ra Constance phải chịu đựng những giờ hấp hối dài dằng dặc.

Anh giật lấy điện thoại và gọi về nhà nhưng đường dây đang bận. Cô ta lại đang tán gẫu với một cô bạn gái.

Khi đặt điện thoại xuống, tay anh đẫm mồ hôi và anh biết mình cần phải tự chủ. Anh chỉ có rất ít thời gian để báo cho cô, nói với cô về hộp đào bị độc và bằng cách đó sẽ để lộ ra những âm mưu đen tối trong đầu. Anh ta phải kiểm soát được mình. Anh không phải là một tên giết người. Anh không phải là công cụ của số mệnh. Và nếu Constance chết, liệu anh còn có thể nhìn mình trong gương không? Anh ta có thể yêu Rita Morgan mà không bị kí ức về cái chết của Constance ám ảnh?

Anh nhấc điện thoại và quay số. Máy vẫn bận.

- Tôi phải về nhà. - Anh ta nói với thư kí - Tình trạng khẩn cấp.

Anh lái xe ra khỏi hàng và chen lên đầu đường cao tốc. Đang giữa trưa và anh biết thỉnh thoảng cô ăn đào vào lúc này. Trong lúc vội vã, đoạn đường dường như dài hơn. Lái xe nhanh, gần như liều lĩnh, Willis hình dung ra việc tìm thấy xác chết của vợ trên nền bếp, dù anh biết chất độc phải vài giờ sau mới bắt đầu phát tán.

Anh lái xe vào gần nhà để ở chỗ quen thuộc. Cửa sổ căn hộ ở tầng 2 của anh dường như vẫn thế, mọi thứ dường như không thay đổi. Có lẽ anh đã lái xe về chẳng vì cái gì cả, và anh lại phải giải thích điều đó cho Constance , rồi tống hộp đào ra khỏi nhà bằng cách nào đó.

- Em yêu. Anh về sớm!

Không có câu trả lời và Willis vào trong bếp tìm cô. Điều đầu tiên anh thấy là hộp Can O’gold Fancy Prepared Peaches đã mở, rỗng không, bị lấy ra khỏi giá. Và một cái đĩa không, có những vụn bẩn và dấu nước trái cây.

- Constance!

Cô xuất hiện, bước ra từ phòng tắm, khuôn mặt nhợt nhạt và có một vẻ gì rất lạ.

- Anh đang làm gì ở nhà vậy? - cô hỏi.

- Anh cảm thấy không khoẻ.

- Ồ!

- Constance, em đã không ăn những quả đào kia chứ?

Cô liếc về chiếc đĩa không và cái hộp đã bị lấy khỏi giá. Rồi mắt họ gặp nhau và có một cái gì đó giữa họ mà anh chưa bao giờ thấy trước đó.

- Ồ, không, anh yêu. Cô Morgan xinh đẹp đó lên đây mượn vài thứ. Cô ấy ở lại nói chuyện và em đã mời cô ấy một bữa ăn nhẹ.

LINH VŨ dịch
(255/5-10)



 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • SORBON (Tajikistan)Sorbon sinh năm 1940 tại làng Amondar  trong một gia đình nông dân  thuộc  tập đoàn sản  xuất nông nghiệp. Năm 1963 ông tốt nghiệp Đại học Lenin của Tajikistan với bằng tiến sĩ ngôn ngữ học. Các tác phẩm của Sorbon xuất hiện lần đầu vào năm 1965. Tuyển tập truyện ngắn đầu tiên của ông “Không phải tất cả đã được nói ra” xuất bản năm 1969. Nhiều truyện ngắn của ông mau chóng được thu thập lại, trong đó có truyện “Ngày đầu tiên đến trường” nói về một phụ nữ Tajikistan  trong Thế chiến thứ Hai, “Sự phòng thủ của đá” và “Người du mục” nói về sự thiết lập chính quyền Xô Viết tại ngôi làng ven sông Zeravshan, và “Áo khoác đồ sộ” nói về một cậu bé bị mất cha trong chiến tranh. Sorbon là nhà văn có tiếng tăm lớn của nền văn xuôi Tajikistan ở thập niên bảy mươi. Truyện ngắn “Người đánh bẫy chim” được viết năm 1974.

  • MISHIMA YUKIO (Nhật Bản)Nhà văn Nhật Bản Mishima Yukio (1925 - 1970) bắt đầu in các tác phẩm của mình từ những năm 20 tuổi. Ông được tặng nhiều giải thưởng văn học và ba lần được đề cử vào giải Nobel văn chương.

  • PAUXTÔPXKIChúng ta yêu mến thứ ánh sáng bảo hiểm của những ngọn hải đăng nhưng ít khi nhìn thẳng vào nó. Thường chỉ có những người bảo vệ và các tay lái tàu dán mắt vào hải đăng để kiểm tra bí mật độ loé sáng của nó. Bởi vì tất cả hải đăng trên biển đều nháy và nhấp nhánh khác nhau, theo những tín hiệu đó, người ta có thể biết được hải đăng nào và con tàu đang ở đâu.

  • SLAWOMIR MROZEK (Ba Lan)(Lê Bá Thự dịch từ nguyên bản tiếng Ba Lan)

  • ALPHONSE DAUDETSự kiện phản ánh trong truyện xảy ra năm 1871, thời kỳ chiến tranh Pháp - Phổ, khi quân đội Phổ (Đức) đã chiếm đóng và sáp nhập hai tỉnh Alsace và Lorraine của Pháp vào lãnh thổ Đức.

  • DOMINIQUE DE VILLEPINTác giả Dominique de Villepin, sinh năm 1953, đương kim Bộ trưởng Ngoại giao Pháp, là người phát ngôn cho chính sách hòa bình đối lập với đường lối chiến tranh Bush-Blair trong vụ tập kích Irak đầu năm 2003. Nơi đầu sóng ngọn gió của bang giao quốc tế, ông đã đồng thời cho xuất bản một khảo luận về Thơ, Ngợi ca những Người Cướp Lửa, tượng trưng cho Người Làm Thơ, qua hình ảnh mượn của Arthur Rimbaud, lấy từ huyền thoại Prométhée.

  • MARK TWAINTwain, Mark, (Samuel Langhorne Clemens), nhà văn Mỹ, (1835-1910). Sinh tại Florida, bang Missouri. Là con thứ tư trong một gia đình thương nhân nghèo. Chưa đầy 12 tuổi, Clemens đã phải thôi học để học nghề sắp chữ in, rồi làm đủ nghề. Năm 1853, bị thôi thúc bởi ý muốn tìm hiểu thế giới, lên đường đi nhiều nơi, làm thợ in công nhật ở St. Louis, New York và Philadelphia. Đến sông Mississipi, hành trình dự kiến đi Brazil bị đình lại vì Clemens lại mơ ước trở thành hoa tiêu trên sông.

  • HARUKI MURAKAMI (Nhật Bản)Chàng và nàng đang đi trên một con đường. Dọc bãi tha ma. Lúc nửa đêm. Sương mờ vây phủ. Họ tuyệt nhiên không định đi ở nơi chốn này vào lúc này. Nhưng vì các nguyên do khác nhau họ đã buộc phải đi. Họ bước vội vàng, nắm chặt tay nhau.

  • GRAHAM GREENE (Anh)Có tám người đàn ông Nhật đang ăn bữa tối ở nhà hàng cá nổi tiếng Bentley's. Họ chỉ trao đổi với nhau dăm ba câu bằng thứ tiếng mẹ đẻ khó hiểu của họ, nhưng luôn có nụ cười nhã nhặn và thường mỗi câu lại kèm một cử chỉ cúi đầu lịch thiệp. Tất cả tám người, trừ có một, đều đeo kính. Thỉnh thoảng cô gái xinh đẹp ngồi phía cửa sổ lại đưa một cái nhìn lướt qua họ, nhưng xem ra chuyện của cô ta quá quan trọng, khiến cô ta không thể thực sự chú ý tới bất kỳ ai trên đời ngoài chính mình và người ngồi cùng bàn.

  • VICTORIA CHIE (ÚC)Cảm giác xấu hổ như kẻ đang làm điều mờ ám, Anne Peterson đặt bút run run ghi tên mình vào phần trống trong bản tự giới thiệu của văn phòng môi giới hôn nhân. Chẳng lẽ lại đến nông nổi này sao? 49 tuổi, trông còn rất trẻ, duyên dáng, đầy sức sống, thành đạt, vật chất đầy đủ, đã ly dị, thế mà phải nhờ môi giới kiếm cho một tấm chồng. Mà anh ta là ai, cũng là một kẻ nào đấy tìm đến đây với những dòng tự giới thiệu cứng nhắc. Thôi, đành vậy chứ biết sao, chỉ vì quá yêu con gái Cindy mà Anne đã phải chịu đựng nỗi trống trải cô đơn ròng rã suốt bao năm trời.

  • NGÔ KIM LƯƠNG (Trung Quốc)"Nếu còn gặp người, nhất định phải nói", Trần Tĩnh đang nghĩ, ngước mắt lên nhìn ánh đèn vàng vọt trong ngõ nhỏ. Đêm khuya rồi, khắp nơi là hình ảnh kỳ quái của một màn đêm đen kịt. "Ai cha! Chiếc xe đạp xui xẻo này!" - Cô đẩy chiếc xe, không biết phải nói thế nào.Sau lưng vang lên một hồi chuông xe đạp, Trần Tĩnh "ai cha" một tiếng, chàng trai cưỡi xe đạp đã lướt vèo qua rồi.

  • S.MROZEKCó một lần tôi đi du lịch.Vì không có tàu trực tiếp đến nơi tôi cần tới nên tôi phải xuống một ga dọc đường để chuyển sang tàu khác.Hôm đó là một buổi tối. Mãi sáng hôm sau con tàu tiếp theo tôi sẽ phải đi mới đến.Tôi rời nhà ga, vào thị trấn để kiếm nơi ở trọ.

  • JOYCE BEGG (Úc)Bà Firbank trở thành hàng xóm của chúng tôi đã lâu, dễ đến sáu bảy năm nay, nhưng thật sự trong chúng tôi chẳng ai dám khẳng định mình biết rõ về người đàn bà này. Xung quanh bà ta lúc nào cũng bao phủ một bầu không khí bí hiểm, ma quái, ngay cả toà dinh thự cổ của bà ta cũng gợi cho người ta cái vẻ rờn rợn, lạnh lẽo giống như nơi trú ẩn của những linh hồn cõi âm.

  • KRISHNAN VARMAKrishnan Varma sinh ở Kerala, Ấn Độ. Ông viết bằng hai thứ tiếng Anh và Malayalam. Trong nhiều tác phẩm của mình, ông chia sẻ sự quan sát đối với cuộc sống của lớp người cùng khổ trên đất nước ông.

  • ARTURO VIVANTELời giới thiệu: Nhà văn Arturo Vivante sinh năm 1923 ở Rome, tốt nghiệp cử nhân đại học McGill, Canada, 1945, tốt nghiệp y khoa đại học Rome, 1949. Ông hành nghề bác sĩ toàn khoa, đồng thời sinh hoạt và nghiên cứu về văn chương ở một số trường đại học Mỹ. Vivante là nhà văn rất nổi tiếng với các truyện cực ngắn và các giai thoại.

  • KÔNXTANTIN PAUXTÔPXKI Mùa Thu. Những hạt sương mai tháng Chín lạnh giá, mọng nước rơi tung tóe từ những tán lá trên cao xuống và bắn cả vào người tôi. Sương từ các nhành cây nhỏ giọt xuống mặt nước sông đen thẫm, tạo thành những vòng tròn và chậm rãi lan ra xung quanh.

  • LTS: Mario Bendetti sinh tại Paso de los Toros (Tacuarembó ) ngày 14 tháng 9 năm 1920. Ông theo học tại trường tiểu học tiếng Đức ở Montevideo và trường trung học Miranda, đã từng làm nhiều nghề như nhân viên bán hàng, tốc kí, kế toán, viên chức nhà nước và phóng viên. Từ năm 1938 đến 1941 ông sống chủ yếu ở Buenos Aires . Năm 1945, khi trở về Montevideo, ông viết bài cho tuần báo nổi tiếng Marcha, qua đó trở thành phóng viên bên cạnh Carlos Quijano và rồi trở thành một thành viên trong ê-kíp của ông này cho tới tận năm 1974 khi tuần báo ngừng xuất bản.Năm 1973, vì lí do chính trị, ông phải rời bỏ tổ quốc,bắt đầu cuộc sống lưu vong kéo dài mười hai năm ở những quốc gia: Ác-hen-ti- na và Tây Ban Nha. Quãng thời gian này đã để lại những dấu ấn vô cùng sâu sắc trong cuộc đời ông cũng như trong văn nghiệp.

  • YUKIO MISHIMA (Nhật Bản)YUKIO MISHIMA tên thật là HIRAOKA KIMITAKE (1925-1970). Sinh tại Tokyo.Tốt nghiệp Đại học Tổng hợp Tokyo . Nhà văn, kịch tác gia, đạo diễn sân khấu và điện ảnh, diễn viên.Năm 16 tuổi đã xuất bản truyện vừa lãng mạn Khu rừng nở hoa. Tiểu thuyết Lời thú tội của chiếc mặt nạ ra năm 1949 đã khẳng định tên tuổi của nhà văn trẻ tài năng và trở thành tác phẩm được đánh giá là kinh điển của nền văn học Nhật Bản.

  • KOMASHU SAKIO (Nhật Bản)Sinh 28/1/1931 tại Osaka (Nhật Bản). Nhà văn chuyên viết truyện khoa học giả tưởng nổi tiếng của Nhật Bản.Tốt nghiệp Đại học Tổng hợp Kyoto , chuyên ngành Văn học Italia.Từ năm 1957 là phóng viên Đài Phát thanh Osaka và viết cho một số các báo. Năm 1961 chiến thắng trong cuộc thi truyện ngắn giả tưởng xuất sắc do tạp chí "SF Magasines" tổ chức.Tác phẩm của Komatsu đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.

  • S. MROZEK (Ba Lan)Có lần tôi bắt gặp một con chó ác bụng đang rượt đuổi một con mèo. Bởi tôi là người yêu động vật nên tôi bèn vớ ngay một cục đá to sụ quẳng vào con chó khiến nó ngã lăn quay, nằm đứ đừ một hồi lâu. Chú mèo nhỏ không nhà, con vật bé xíu nom mệt phờ râu. Không chút do dự - tôi cho nó nương nhờ. Đây quả là một con mèo đẹp mã, lông mịn màng, mắt long lanh. Tôi đem nhốt nó vào trong nhà, đoạn bỏ đi chơi bời trác táng.