MICHAEL MARDER
Tất cả chúng ta đều đã nghe nói đến công dụng của vi khuẩn đường ruột khi tham gia tích cực vào trong quá trình tiêu hóa của con người và động vật. Đó là ví dụ hoàn hảo về sự cộng sinh, hay sự chung sống lâu dài của các sinh thể thuộc các loài khác nhau.
Ảnh: thephilosopher1923.org
Thế nhưng, tác động của vi khuẩn sống trong ruột dường như vượt ra khỏi cả bộ máy tiêu hóa. Thực tế chỉ ra rằng hệ vi sinh vật đường ruột cũng là một “quần xã tâm lý” (psychobiome), có khả năng ảnh hưởng đến cách chúng ta cảm nhận, suy nghĩ và hành động. Gần đây, một nhóm các nhà khoa học, chủ yếu từ Trường Y Harvard và Đại học Northeastern ở Boston, đã phát hiện ra rằng Bacteroides fragilis, một loại vi khuẩn thường sinh sống trong ruột kết của con người, tạo ra một lượng lớn GABA, một chất dẫn truyền thần kinh quan trọng của não bộ có tác dụng ức chế hoạt động của hệ thần kinh và tạo ra tác dụng làm dịu, giúp con người bình tĩnh trở lại khi căng thẳng. Nói tóm, những vi khuẩn này vô hại.
Trong khi các nhà khoa học đã nhận thức được mức độ có lợi của một số vi khuẩn đối với đời sống sinh học của chúng ta, thì câu chuyện rộng rãi lại khác với virus. Đại dịch Covid-19 đã đưa virus gây bệnh SARS-CoV-2 trở thành tâm điểm chú ý. Các nghiên cứu về nguồn gốc của nó cũng đã nhấn mạnh khả năng của vi sinh vật “nhảy” từ loài này sang loài khác, truyền từ động vật sang người. Điều chưa được nhiều người biết đến là thực tế rằng virus ảnh hưởng đến tất cả sinh vật - không chỉ bao gồm con người và động vật, mà còn cả thực vật và thậm chí cả vi khuẩn. Tuy nhiên, cho đến nay, có một sự đồng thuận rằng ảnh hưởng của virus hoặc là hoàn toàn độc hại hoặc, phần nào đó, là trung tính. Lý thuyết về việc làm suy yếu virus giả định một động lực tiến hóa từ cực đầu tiên đến cực thứ hai, từ các tác động bất lợi (đôi khi gây chết người) đến các phiên bản ôn hòa hơn hoặc nhẹ nhàng hơn mà không gây hại đáng kể cho vật chủ. Ví dụ, một số protein từ các virus phiên mã ngược nội sinh trong cơ thể người (Human Endogenous Retrovirus - HERVs) có thể được triển khai cho các mục đích liên quan đến thai nghén, đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển của nhau thai.
Tuy nhiên, vì một số vi khuẩn tỏ ra hữu ích (nếu không phải là không thể thiếu) đối với động vật và con người, thì liệu virus có thể được cho là như vậy không? Nói cách khác, liệu có thể tồn tại một thứ như một loại virus hữu ích, một loại virus không gây hại cũng như không quá mức trung tính trên cơ thể vật chủ, mà ngược lại, tạo điều kiện để tối ưu hóa cho hoạt động sinh lý của vật chủ hay không?
Để trả lời cho những câu hỏi có vẻ kỳ lạ này, một nhóm các nhà khoa học Tây Ban Nha vừa có một phát hiện đột phá, được công bố trên Kỷ yếu của Viện Hàn lâm Khoa học Quốc gia Hoa Kỳ. Cùng với các đồng nghiệp của mình từ Đại học Valencia và Đại học Jaume I, Rubén González đã phân lập được những tác động có lợi đáng ngạc nhiên của virus khảm củ cải, thuộc họ Potyviridae, trên vật chủ thực vật của nó.
![]() |
Ảnh hiển vi điện tử tương phản âm của các hạt một phân lập vi rút đậu xanh từ họ Potyviradae - Ảnh: thephilosopher1923.org |
Theo nghiên cứu, tác nhân gây bệnh thường có khả năng chịu đựng cao hơn trong điều kiện khô hạn của cải xoong (Arabidopsis thaliana). Cơ hội sống sót của những cây bị nhiễm bệnh trung bình cao hơn 25% so với những cây không bị nhiễm bệnh. Điều thú vị là các mẫu vật bị nhiễm virus khảm củ cải đã biểu hiện nhiều đột biến thích nghi khác, liên quan đến việc điều chỉnh đồng hồ sinh học và các nội tiết tố thực vật (phytohormones) chịu trách nhiệm cho hoạt động của các đường truyền tín hiệu bảo vệ và tăng trưởng. Thay vì theo chiến lược thường thấy là giết vật chủ của nó, virus này lại tăng cường cơ hội sống sót của thực vật trong điều kiện bất lợi.
González và nhóm các nhà khoa học của ông giải thích những phát hiện của họ dựa trên sự chuyển đổi đột ngột từ đặc tính gây bệnh sang đặc tính tương hỗ trong quá trình tương tác giữa virus khảm củ cải và cải xoong Thale. Trên thực tế, bản chất tương hỗ của virus được bảo tồn sau tương tác ban đầu khi nó được sử dụng để lây nhiễm cho các cây được tưới đủ nước. Nói cách khác, các chủng virus phát triển trong điều kiện khô hạn vẫn giữ được giá trị thích nghi và đặc tính hữu ích của chúng khi chúng lây nhiễm cho cây trồng không còn đủ sức chịu đựng trước những điều kiện bất lợi này. Các nhà triết học có thể rút ra kết luận gì từ những thí nghiệm hấp dẫn này?
Trước hết, chúng ta nên giải quyết vấn đề liên quan đến việc các diễn ngôn “diệt trừ virus” hiện nay. Nói chung, chúng ta nên tránh phóng chiếu các phạm trù áp chế của con người vào thế giới không phải con người, để tránh đo lường thế giới này bằng cùng một thước đo nhân học. Như các thí nghiệm với virus khảm trên cải xoong và củ cải Thale cho thấy, tác nhân chính trong sự việc này không phải là thực vật hay virus, mà là điều kiện môi trường khiến cái sau ảnh hưởng lên cái trước. Vậy điều gì sẽ xảy ra khi những điều kiện và những thay đổi đột ngột bên trong chúng trở nên quan trọng và vừa được xác định như là thủ phạm chính vừa là chất xúc tác cho các mối quan hệ giữa các loài, các vương quốc sinh học? Làm thế nào chúng ta có thể kể câu chuyện về một đại dịch, trong khi tính đến vai trò cấu thành của bối cảnh môi trường mà đại dịch ấy đang diễn ra?
Chính vì thế, thứ hai, chúng ta nên tương đối hóa các cực điểm của tác hại và lợi ích trong lĩnh vực sinh học, nơi các quá trình tiến hóa và thích nghi làm xáo trộn các định nghĩa cứng nhắc mà chúng ta có xu hướng vận hành trong các lĩnh vực khác. Những gì có hại (hoặc trung tính) có thể trở nên hữu ích trong thời gian dài của chọn lọc tự nhiên hoặc thậm chí trong một thời gian tương đối ngắn của sự thay đổi hoàn cảnh của sinh vật. Một cách triệt để hơn, chúng ta có thể đồng thời áp dụng một quan điểm biện chứng về các giá trị tiêu cực và tích cực vốn có trong cùng một thứ. Một cái nhìn như vậy được coi là có tính tư biện (speculative), vì nó phát triển mạnh dựa trên những mâu thuẫn bên trong không thể dung hòa được đối với một lối tư duy quen mòn gắn liền các quy tắc của logic học hình thức, theo đó X và không phải X (giả sử, sống và không-sống) không thể đồng thời tồn tại đối với một và cùng một đối tượng. (Xin lưu ý rằng ví dụ trên không phải là ngẫu nhiên: virus có thể được cho là vừa là vật thể sống vừa là vật thể không-sống.)
Thứ ba, chúng ta nên tiếp cận tất cả các dạng sống với một tinh thần cởi mở, luôn kiểm soát những thành kiến của chúng ta đối với chúng hoặc, tệ hơn, chống lại chúng. Mục tiêu này khá khó đạt được đối với virus, mặc dù ngoài lĩnh vực sinh học, một video hay thông điệp có tính viral (lan truyền chóng mặt) lại có thể được xem là điều gì đó tích cực, trong chừng mực nó nhanh chóng tiếp cận được một lượng lớn khán giả toàn cầu. Trong sinh học nói riêng, nhà virus học người Đức Karin Moelling đã cố gắng để chống lại sự buộc tội đầy tai hại về phía những sinh vật nhỏ bé này trong cuốn sách của cô xuất bẳn năm 2006, Virus: Là bạn bè hơn là kẻ thù (Viruses: More Friends Than Foes). Bằng cách coi virus là “siêu năng lực của sự sống”, Moelling thu hút sự chú ý của độc giả về cách, ví dụ, virus có thể được “áp dụng chống lại vi khuẩn gây hại kháng nhiều kháng thể”. Sự thay đổi đột ngột về tác động của virus khảm củ cải lên cải xoong Thale khẳng định mô hình lý thuyết của Moelling. Thế nhưng, sẽ khôn ngoan hơn nếu ta kìm lại việc quy kết các đặc điểm thân thiện cho virus cũng như quy định các phẩm chất đối nghịch với chúng, vì những đặc điểm này không cố hữu mà thường xảy ra khi có điều kiện thích hợp về môi trường, và do đó, luôn dao động.
Không còn nghi ngờ gì nữa, nhiều kết luận khác cũng được rút ra từ nghiên cứu đến từ Tây Ban Nha ấy. Tuy nhiên, chủ đề bao quát mà nó hướng đến, ngoài những nỗ lực đi vào “chiến đấu”, là để đề ra các biện pháp bảo vệ khỏi virus, cũng như diệt trừ virus, điều cốt yếu là phải suy nghĩ thấu đáo, suy nghĩ về chúng và có lẽ cả việc suy nghĩ cùng với chúng. Liệu một khoảnh khắc nào đó sẽ đến khi chúng ta sẵn sàng suy nghĩ thấu đáo về, và cùng với, SARS- CoV-2, loại virus gây ra đại dịch Covid?
Tuệ Đan dịch
Dịch từ “When Viruses Help”
(thephilosopher1923.org)
(SHSDB42/09-2021)
TRẦN THÙY MAI.Năm giờ sáng, máy bay chở chúng tôi đáp xuống sân bay Incheon. Giọng nói ngọt ngào của nữ tiếp viên vang lên với lời cảm ơn và câu chào tạm biệt, sau khi báo một thông tin làm chúng tôi ớn lạnh: Nhiệt độ bên ngoài là 4 độ C...
ĐẶNG NHẬT MINHLà một thương cảng của Nhật Bản, nhưng Fukuoka lại được nhiều người biết đến như một thành phố của nhiều hoạt động văn hoá mang tầm quốc tế. Tôi có duyên nợ với thành phố này từ năm 1991 khi được mời tham dự Liên hoan phim quốc tế Fukuoka lần thứ nhất với bộ phim Bao giờ cho đến tháng 10.
PHẠM XUÂN PHỤNGChữ tea trong tiếng Anh là do dùng mẫu tự La -tinh để ký âm chữ trà (âm Hán Việt) mà người Trung Hoa nói rất rõ là chè. Lâu nay cứ tưởng chè là tiếng thuần Việt hoặc là biến âm của trà, hóa ra chè lại là từ gốc của trà. Mẹ mà nhầm là con, vui thật.
BÙI NGỌC TẤNLần đầu tiên đặt chân tới Châu Âu, có biết bao nhiêu ấn tượng. Ấn tượng về những nét mặt người, về những dáng người đi, về bầu trời không vẩn bụi trong veo, về những xa lộ, về những chiếc xe phóng với tốc độ 140 kilômét không một tiếng còi, nối nhau trên các con đường tám đến mười làn xe chạy không còn biên giới cách ngăn...
NGUYỄN VĂN DŨNGCó người nói Praha đẹp hơn Paris . Tôi không tin. Nhưng bây giờ thì tôi thấy nhận xét ấy không phải không có căn cứ. Praha là thành phố cổ kính nguyên vẹn nhất châu Âu, là “thành phố của trăm tháp vàng”, là “bài thơ bằng đá”, là khúc hát đắm say, là cốc rượu nồng nàn, là bức tranh tuyệt mĩ, là mảnh thời gian còn sót lại... Năm 1992, Praha được công nhận là di sản văn hoá thế giới.
PHẠM THỊ CÚCCó người nghĩ rằng, ở các nước giàu, thì ít người thất nghiệp. Không đâu, ở Pháp, người thất nghiệp cũng khá nhiều, mà đâu phải vì không có bằng cấp mà thất nghiệp, đa số họ đều có bằng kĩ sư, cử nhân, cả thạc sĩ hẳn hoi.
NGUYỄN VĂN DŨNGAmazon là tên khu rừng lớn nhất thế giới. Amazon cũng là tên con sông, theo khảo sát mới đây, là con sông dài nhất thế giới. Amazonas, quê hương của hai Amazon kia, là bang rộng nhất trong 26 tiểu bang của Brasil - rộng hơn cả diện tích của nước Anh, Đức, Pháp, Ý cộng lại. Còn Manaus, là kinh đô của Amazonas miên man núi rộng sông dài.
NGUYỄN VĂN DŨNG Tôi thật sự xúc động khi đứng trước ngôi mộ của Lý Tiểu Long. Trước đây tôi hình dung nơi an nghỉ cuối cùng của anh phải là một ngôi đền cực kỳ tráng lệ cho xứng với tên tuổi lẫy lừng của anh. Sau khi anh mất, một tờ báo ở Sài Gòn hồi đó viết đại loại trong thế kỷ XX, anh là một trong ba nhân vật nổi tiếng nhất châu Á.
NGUYỄN VĂN DŨNGVới Phật giáo, Linh Thứu là ngọn núi thiêng. Sau khi thành đạo, một thời gian dài Linh Thứu là trú xứ của đức Phật và các đệ tử của Ngài. Tại đây Ngài đã giảng kinh Pháp Hoa và nhiều bộ kinh quan trọng khác. Linh Thứu còn là nơi khởi phát dòng Thiền Ấn Độ để rồi từ đây hạt giống Thiền được gieo trồng khắp nơi trên trái đất.
PHẠM PHÚ PHONGTrong lịch sử đất nứơc Trung Hoa có sáu nơi được chọn làm thủ đô, theo thứ tự Lạc Dương, Tây An, Nam Kinh, Khai Phong, Hàng Châu và Bắc Kinh là thủ đô thứ sáu, tồn tại cho đến ngày nay. Bắc Kinh đầu tiên là kinh đô của nước Yên, nên còn gọi là Yên Kinh, sau đó đến thời Minh Thành Tổ cho xây dựng trở thành Bắc Kinh ngày nay. Với diện tích 18.826 km2, Bắc Kinh rộng gấp 18 lần so với thủ đô Hà Nội, được mệnh danh là thành phố bốn nhiều: nhiều người, nhiều xe, nhiều cầu vượt, nhiều di tích...
Từ một trại lính đầy vết đạn ở vùng California (Hoa Kỳ) đã xuất hiện một tu viện Phật giáo - Tu viện Lộc Uyển - do nhà sư gốc Huế - Thiền sư Thích Nhất Hạnh - gầy dựng. Tại đây, ảnh hưởng của Thiền học Việt Nam đã tạo được một sự chuyển hóa đầy thử thách: biến trung tâm luyện tập bắn súng trở thành thiền đường đầy ánh sáng và tình thương, có ảnh hưởng rất lớn đối với nhiếu người ở Hoa Kỳ.Sông Hương xin giới thiệu bài viết của Teresa Wattanabe đã đăng trên tờ Los Angeles Times, tờ nhật báo lớn hạng ba của Hoa Kỳ, với bản dịch của Làng Mai và ảnh của Nguyễn Đắc Xuân để giới thiệu với bạn đọc như một dòng chảy của văn hóa Phật giáo xứ Huế.
TRẦN THÙY MAICác quan chức ngành khí tượng Nhật Bản đã cúi gập mình xin lỗi toàn dân: Hoa anh đào sẽ nở ngày 23 thay vì 16 - 3 như dự báo. Đến sân bay Narita vào đúng sáng 24, tôi tự nghĩ mình đến rất kịp thời, nên khi cậu cảnh sát làm thủ tục nhập cảnh hỏi về mục đích đến Nhật, tôi đã không ngần ngại trả lời chắc nịch: “Ngắm hoa anh đào”. Cậu cảnh sát khoanh cái rụp vào lời khai của tôi và “OK” ngay với một nụ cười trên môi.
NGUYỄN VĂN DŨNGNằm giữa trung tâm bán đảo Iberia, thủ đô Tây Ban Nha trải rộng trên các ngọn đồi dưới chân rặng Sierra de Guadarrama, ở độ cao 640m so với mặt nước biển - là thành phố cao nhất châu Âu. Diện tích 607 km2. Dân số gần 4 triệu người.
KEVIN BOWEN
(Giám đốc WJC)
LTS: Trong 25 năm qua tên tuổi nhiều nhà văn, nhà thơ của Trung tâm William Joiner (Đại học Massachusetts - Hoa Kỳ) như Kevin Bowen, Fred Marchant, Nguyễn Bá Chung, Lady Borton, Martha Colline, Bruce Weigl, Lary Heinemann... đã xuất hiện trên Sông Hương cũng như trên nhiều báo chí văn nghệ, văn hoá trong nước với những tác phẩm tâm huyết, mến yêu đất nước Việt Nam cũng như những hoạt động trên các lãnh vực giao lưu văn hoá, giúp đỡ y tế, giáo dục cho Việt Nam sau chiến tranh, như những biểu hiện của sự ân hận, tủi hổ với những gì mà đất nước họ đã gây ra trên mảnh đất này.
NGUYỄN BÁ CHUNG
Tháng 10 năm 2007 đánh dấu 25 năm thành lập trung tâm Joiner. Nhưng với tôi, nó đánh dấu một đoạn đường 20 năm nổi chìm với trung tâm, trong đó có 15 năm làm thiện nguyện và 10 năm cuối cùng làm việc chính thức. Hai mươi năm là một thời gian dài đủ để nhìn lại, ghi lại một số kỷ niệm và rút ra một số kinh nghiệm để nhìn tới đoạn đường phía trước.
NGUYỄN ĐẮC XUÂNHoạt động yêu nước ở miền Nam từ những năm sáu mươi của thế kỷ trước, tôi không lạ gì nước Mỹ. Thuở ấy, Phan Ch. anh bạn vong niên của tôi làm phiên dịch ở cơ quan MACV ở Huế từng bảo tôi “Người Mỹ giống như một cậu bé con nhà giàu nhưng thiếu lễ độ”.
VÕ QUÊNhận lời mời của Hội đồng quốc gia vì nghệ thuật truyền thống Hoa Kỳ (National Council for the Traditional Arts), đoàn nghệ sĩ thuộc Hội Văn học nghệ thuật Thừa Thiên Huế đã tham dự Festival dân ca dân nhạc tại thành phố Lowell, bang Massachusetts, Hoa Kỳ từ ngày 25-7-1995.
NGUYỄN XUÂN THÂMChúng tôi đến Aten vào cuối tháng chín, mà buổi trưa vẫn còn oi bức như bao trưa miền biển ở Việt . Thanh Tùng và tôi loay hoay mãi vẫn không bắt được taxi để chuyển tiếp đến sân bay nội địa.
NGUYỄN VĂN DŨNGSau Cali tôi định đi Dallas, nhưng rồi chuyển hướng, tôi lên Seattle theo vẫy gọi của bạn bè. Ai ngờ cái thành phố nầy dịu dàng, xanh và đẹp đến vậy. Hèn chi người ta gọi nó là “Thành phố ngọc bích” ( Emerald City ), hay “Mãi mãi xanh tươi” ( Evergreen State ).
PHẠM THƯỜNG KHANHĐầu năm nay khi biết tôi chuẩn bị đi công tác Trung Hoa, em gái tôi, một người thơ gọi điện từ Huế ra bảo: “Anh cố gắng mà cảm nhận vẻ đẹp rực rỡ của văn minh Trung Hoa. Hình như với bệ phóng vững chắc của nền văn minh hàng ngàn năm ấy, người Trung Hoa đang có những cuộc bứt phá ngoạn mục và trong tương lai dân tộc này còn tiến xa hơn nữa”. Là một quân nhân, tôi đâu có được trí tưởng tượng phong phú và trái tim dễ rung động như em tôi, nhưng 10 ngày trên đất nước Trung Hoa đã để lại trong tôi những ấn tượng thật sâu đậm.